--------> Sưu Tầm và Chia Sẻ Mọi Thứ

--------> Sưu Tầm và Chia Sẻ Mọi Thứ

Mối thù truyền kiếp & Cuộc chiến Gaza

Mối thù truyền kiếp giữa dân Do Thái vs dân Palestine(& khối Ả Rập) đã là nguyên nhân chính đưa đến sự kiện "9-11", chiến tranh khủng bố đe dọa Mỹ & phương Tây, chiến tranh ở Iraq & Afghanistan, chiến tranh ở Gaza. Chính thái độ thiên vị rõ rệt của Anh - Mỹ & phương Tây trong đối xử với dân Do Thái vs dân Palestine đã khiến dân Do Thái không thể sống chung hòa bình với dân Palestine trên mảnh đất sản sinh ra 3 tôn giáo lớn nhất(Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo, Do Thái giáo) mà dân Palestine đã sống ở đó mấy ngàn năm qua.
Mối thù truyền kiếp:Từ Azar qua Ibrāhīm (Arabic: ابراهيم, hay Abraham) rồi Ismail(hay Ishmael) cho đến khi Anh - Mỹ giúp dân Do Thái lập ra nước Israel với mục đích dùng anh lính Do Thái để kiểm soát, khống chế khối Ả Rập ở vùng Trung Cận Đông này thì mối thù truyền kiếp giữa dân Do Thái và khối Ả Rập thêm sâu đậm, căng thẳng và máu lửa nhiều hơn.Cuộc chiến Gaza hôm nay là sự tiếp diễn cho mối thù truyền kiếp giữa dân Do Thái và khối Ả Rập nhưng nó cũng khiến người VN nhớ lại cuộc chiến năm xưa, cũng máu lửa, nước mắt, thù hận...
Location of Gaza Strip
Gaza Strip
قطاع غزة Qiṭāʿ Ġazza
רצועת עזה Retzu'at 'Azza
"Nhìn vào lịch sử tôn giáo toàn cầu, kể từ lúc khởi nguyên Tây lịch cho đến nay, ta thấy các thảm họa chiến tranh tôn giáo, những cuộc thánh chiến đẫm máu, những cuộc chinh phục dã man, khủng khiếp của các đoàn quân Thập Tự Giá, nhân danh Thiên Chúa, nhân danh Allah đã từng diễn ra không biết bao nhiêu lần. Song le, thuở ấy, võ khí còn thô sơ, các phương tiện vận chuyển binh lực còn chậm chạp, nên sự chết chóc của loài người, vì nguyên nhân xung đột và hận thù tín ngưỡng, đã bị giới hạn rất nhiều, nên ngày tận thế chưa xảy ra, và nhân loại còn được may mắn sống sót đến tận ngày nay. Nhưng, bây giờ, căn cứ trên lời dạy sắt máu của Yahweh trong thánh kinh đạo Du Già, và sự kiên quyết âm thầm thực hiện lệnh phán truyền của Yahweh làm vua khắp cõi thế gian và đè đầu cỡi cổ toàn thể bọn goyim xú uế, không thuộc chủng Do Thái, bằng mọi thủ đoạn thâm độc nhất, kể cả thủ đoạn mượn dao giết người, của dân Do Thái, ta không khỏi giật mình lo ngại. Nhìn vào cuộc chiến đẫm máu, dai dẳng, kéo dài nhì nhằng hàng chục năm qua, giữa dân Do Thái (đạo Du Già) và dân Palestine (Hồi giáo), nhìn vào cuộc chiến xâm lăng chớp nhoáng, cực kỳ tàn bạo, với các loại võ khí tối tân nhất ở Iraq hiện nay, ta thấy mối hận thù tôn giáo đã bùng nổ rõ rệt giữa đạo Du Già Do Thái với đạo Hồi Ả Rập, do các phe phái cuồng tín, diều hâu, hiếu sát chủ trương. Mặc dù dân số Do Thái so với dân số Ả Rập quá chênh lệch, lãnh thổ Israel chỉ bằng ngón tay út trong bàn tay lớn rộng mênh mông của Ả Rập, nhất là tài nguyên thiên nhiên của Do Thái chẳng đáng giá gì so với nguồn lợi dầu hỏa khổng lồ của các nước Hồi giáo trong vùng Trung Đông; nhưng may mắn thay (hay đáng lo thay?), dân Du Già Do Thái, phe hiếu chiến, hiếu sát, đã thẩm nhập vào được tận những ngôi vị lãnh đạo then chốt trong nhiều lãnh vực quan yếu chính trị, kinh tế, tài chính, thương mãi, kỹ nghệ, khoa học... của HK, vô hình chung đã biến HK thành con khủng long với bộ não điện tử Do Thái vốn cài đặt sẵn luật Talion nhắm vào Hồi giáo Ả Rập từ mấy ngàn năm trước! Hoa Kỳ vốn là nơi nương tựa vững chắc nhất của giống dân Do Thái lưu vong, vô tổ quốùc. Năm 1948, nhờ sự che chở tận tình của Anh-Mỹ, dân Do Thái đã trở về được vùng đất hứa Jérusalem, lập nên quốc gia Israel. Nhưng từ đó đến nay, đứa hài nhi Israel vẫn phải bám chặt lấy cái vú sữa, và nhờ vào sự dung túng, che chở bằng võ lực gần như tuyệt đối của Hoa Kỳ, để sinh tồn giữa những người anh em (cùng cha khác mẹ) Ả Rập trong vùng Trung Đông, vốn đã có mối thù truyền kiếp, trải dài hàng mấy ngàn năm.Vì thế, bây giờ ta chẳng lấy gì làm lạ, khi thấy phe diều hâu hiếu chiến, hiếu sát ở HK đã thắng thế hoàn toàn. Phải chăng đó sẽ là đầu mối của một hiểm họa chiến tranh tôn giáo có tầm vóc toàn cầu, ( biết đâu chẳng dùng đến bom nguyên tử), hay ít nhất cũng báo hiệu cho nhân loại thấy trước một giai đoạn bất ổn triền miên, từ nay sẽ diễn ra khắp nơi, chỗ nào có Hồi giáo, trên thế giới ? Mối ưu tư, lo lắng này, cộng thêm lời của đại hiền triết Nietzsche: Do Thái là chủng tộc tai họa nhất của lịch sử thế giới(les Juifs sont le peuple le plis funeste de l'histoire du monde).Năm 1948, nhờ sự che chở tận tình của Anh-Mỹ, dân Do Thái đã trở về được vùng đất hứa..." (LAntéchrist, 22)(trích ĐẶNG VĂN NHÂM)


Nguồn gốc xung đột Palestine-Israel
Cuộc chiến tranh đẫm máu giữa Israel và phái Hồi giáo vũ trang Hamas ở Dải Gaza hiện nay nên được xem xét trong bối cảnh lịch sử xung đột giữa Israel với Palestine và thế giới Arập nói chung. Đến nay, lịch sử về vùng đất bao gồm lãnh thổ trên thực tế của Palestine và của Israel ngày nay vẫn còn chưa có cách nhìn thống nhất của các nhà sử học.


1.(AP Photo/Gil Nechushtan)

2 (AP Photo/Ariel Schalit)

3(Uriel Sinai/Getty Images)
Người Do Thái và phong trào phục quốc
Vùng lãnh thổ Palestine ngày nay gồm ba khu vực lớn: Bờ Tây sông Jordan, một phần phía đông Jerusalem, và phần lãnh thổ tách rời- Dải Gaza.Lịch sử tranh chấp đất đai và hận thù giữa người Do Thái Israel và người Arập Palestine ngày nay có nguồn gốc rất xa từ thời hình thành các tôn giáo lớn trên thế giới.Tại vùng đất này, người Hồi giáo Arập và người Do Thái giáo chưa có thời nào chịu chung sống hòa bình với nhau, khiến lịch sử vùng Trung Đông trở nên vô cùng phức tạp.
Từ năm 1517-1920, toàn bộ vùng lãnh thổ thuộc Palestine và Israel ngày nay do Đế chế Ottoman cai quản.Sau Thế chiến I, Đế chế Ottoman sụp đổ, các bên thắng trận gồm Anh, Pháp, Ý, Nhật Bản tổ chức hội nghị Sanremo (Ý) từ ngày 19-26/4/1920 để chia quả thực.Thực dân Anh được ủy trị cai quản phần đất trước kia thuộc về Đế chế Ottoman, bắt đầu từ 1920-1948. Đến năm 1948 vùng đất này vẫn chỉ có tên gọi là Palestine dưới sự cai quản của thực dân Anh.Tuy nhiên, đường biên giới cho vùng đất Palestine dưới sự ủy trị của Anh không được phân định rõ ràng.Thời kỳ chiến tranh tôn giáo trước Đế chế Ottoman, người Do Thái ở vùng đất này phải ly hương sống lưu vong tại nhiều nước châu Âu khá nhiều.Tuy nhiên đến thời kỳ Đế chế Ottoman và thực dân Anh, vùng đất này được xác định là có số người Do Thái phải di cư sang ở các quốc gia khác nhau trên thế giới, nhiều nhất là châu Âu.Người Do Thái nổi tiếng là thông minh nên rất thành đạt trong các ngành kinh tế, đặc biệt là ngân hàng, tài chính ở châu Âu tại các nước họ nhập cư.Quốc trưởng Đức Adolf Hitler của nhà nước Đức Quốc xã không thể chấp nhận trên thế giới có một dân tộc nào thông minh và thành đạt hơn dân tộc German nên ra lệnh tàn sát hủy diệt người Do Thái.Suốt thời kỳ trước và trong Thế chiến II, người Do Thái ở châu Âu bị Đức Quốc xã săn đuổi, giết hại. Hơn năm triệu người Do Thái sinh sống ở châu Âu bị phát xít Đức bắt dồn vào các trại tập trung lao động khổ sai và giết hại dã man bằng cách xả hơi độc vào trong trại tập trung Do Thái ở Ba Lan và Đức để giết tập thể.Do bị săn đuổi ở châu Âu, người Do Thái lần theo kinh thánh của họ tự xác định quê cha đất tổ của mình là vùng đất thuộc Israel ngày nay. Từ đó, trên thế giới có phong trào phục quốc, kêu gọi tất cả những ai là người Do Thái đang sống ly hương trở về đất tổ.Giữa người Do Thái hồi hương và người Palestine ở vùng đất này liên tục xảy ra xung đột tranh chấp đất đai. Các cuộc tranh chấp này đều đẫm máu cho cả hai bên.Tình hình tranh chấp giữa người Arập và Do Thái ở đây càng gay gắt sau khi kết thúc Thế chiến II năm 1945 có làn sóng lớn người Do Thái trở về chiếm đất của người Arập tại vùng đất ủy trị của thực dân Anh.


Israel lập quốc, Palestine lỡ cơ hội

Hai năm sau khi kết thúc Thế chiến II, ngày 29/11/1947, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc (LHQ) thông qua Nghị quyết 181 không ràng buộc để chấm dứt quyền ủy trị của Anh đối với vùng đất này kể từ ngày 1/8/1948.Nghị quyết 181 của Đại hội đồng LHQ cũng chia vùng đất Palestine trước đó dưới sự ủy trị của Anh thành hai phần gần bằng nhau cho cả người Palestine lẫn người Do Thái.Phần cho Israel gồm 20.770 km2 và cho Palestine 26.320 km2. Nghị quyết nói rằng nếu cả Palestine và Israel đều thực thi Nghị quyết 181 của Đại hội đồng và thành lập nhà nước của mình trên vùng đất được chia, LHQ sẽ công nhận đó là những nhà nước độc lập.Nghị quyết 181 không ràng buộc được thông qua ở Đại hội đồng LHQ với 33 phiếu thuận (53%), 13 phiếu chống (23%), 10 phiếu trắng (17%), và một nước không tham gia bỏ phiếu là Thái Lan. Với Nghị quyết 181 Đại hội đồng LHQ, những người Do Thái chớp ngay cơ hội để lập ra nhà nước Israel và được LHQ công nhận như ngày nay. Trong khi đó, những người Arập Palestine bác bỏ Nghị quyết 181 vì cho rằng như thế là công nhận bị mất gần một nửa lãnh thổ của ông cha họ.Người Arập Palestine không thành lập nhà nước của mình nên đã lỡ cơ hội. Đó là vì sao cho đến nay người Palestine vẫn còn mơ ước thành lập một nhà nước độc lập Palestine. 



8An Israeli gunner covers his ears as a mobile artillery piece fires at a target in the Gaza Strip, on the Israel-Gaza border, Sunday, Jan. 4, 2009. Israel seized control of high-rise buildings and attacked houses, mosques and smuggling tunnels as it pressed forward with its offensive against the Gaza Strip's Hamas rulers on Monday. (AP Photo) #

9The sun sets on the Israel-Gaza border January 4, 2009. (REUTERS/Yannis Behrakis) #
10Palestinians hold white flags as a signal for Israeli troops after leaving their house near the area where Israeli soldiers and Palestinian militants exchange fire outside Jabaliya refugee camp, northern Gaza Strip, Monday, Jan. 5, 2009. (AP Photo/AP Photo/Hatem Moussa) #

11Artillery shells explode above Gaza City on January 4, 2008, as seen from the Israeli side of the Israel-Gaza border. (PATRICK BAZ/AFP/Getty Images) #

12 A Palestinian medic surveys the damage to a mobile medical clinic destroyed after an Israeli air strike in Gaza January 5, 2009. Four ambulances and three mobile clinics were destroyed in the bombing at Health Care Union, medical workers and witnesses said. (REUTERS/Mohammed Salem) #


13A picture taken from the Israeli side of the border with the Gaza Strip shows a bomb dropped by an Israeli air force F-16 jet exploding in Beit Hanoun, north of the Gaza Strip, on January 3, 2009. (PATRICK BAZ/AFP/Getty Images) #
Gaza - Mảnh đất đầy thương tích:
Gaza là một dải đất thuộc lãnh thổ Palestine tách rời với Bờ Tây, trông giống hình một ống tay áo chiều dài 41 km, rộng từ sáu đến 12 km, phía tây giáp Địa Trung Hải, phía đông và nam chung biên giới với Israel, Aicập.
Dân số Gaza hiện nay gần 1,5 triệu người. Gaza là tên thành phố lớn nhất trong bốn trung tâm đô thị của lãnh thổ này nhưng không biết từ bao giờ người ta lấy tên thành phố Gaza đặt cho cả một vùng đất .
Những cuộc giành giật Gaza
Từ thời cổ đại, Gaza từng bị đặt dưới sự kiểm soát của người Thổ Nhĩ Kỳ, Pháp, Ai cập, Anh, Do Thái. Năm1660, thời Đế chế Ottoman, Gaza trở thành thủ đô của Palestine.
Sau Thế chiến I, Anh cai quản Gaza đến năm 1948. Sau khi nhà nước Do Thái được thành lập năm 1948, cuộc chiến tranh Trung Đông lần thứ nhất nổ ra giữa các nước Arập và Israel. Các nước Arập phản đối Nghị quyết không ràng buộc 181 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc (LHQ) về việc phân chia lãnh thổ cho Palestine và Israel cũng như không chấp nhận sự tồn tại của nhà nước Do Thái trong khu vực toàn các quốc gia Arập.
Thực ra, Nghị quyết 181 cũng không được thông qua tại Hội đồng Bảo an LHQ vì có một phiếu chống của Trung Quốc (Tưởng Giới Thạch). Cuộc chiến tranh Trung Đông lần thứ nhất kết thúc năm 1949 bằng một hiệp định ngừng bắn giữa Israel với các nước A Rập láng giềng gồm Ai Cập, Libăng, Syria, và Jordani.
Hiệp định này xác định đường ranh giới xanh ngăn cách Israel khỏi Bờ Tây, Dải Gaza, Cao nguyên Golan, và Bán đảo Sinai. Trong đó, Dải Gaza do Ai cập kiểm soát, Bờ Tây và một phần khu vực phía đông của thành phố Jerusalem do Jordani cai quản.
Năm 1956, xảy ra cuộc khủng hoảng Kênh đào Suez của Ai Cập dẫn đến cuộc chiến tranh ngắn giữa Israel và Aicập phá vỡ hiệp định ngừng bắn được ký năm 1949, Israel chiếm được Bán đảo Sinai. Liên Xô và Mỹ phối hợp ép buộc Israel rút quân có điều kiện khỏi Bán đảo Sinai. Đổi lại, Ai cập chấp nhận lực lượng giữ gìn hòa bình LHQ vào Sinai bắt đầu từ năm 1957.
Năm 1967, Israel phát động cuộc chiến tranh sáu ngày tấn công các nước Arập láng giềng. Dựa vào thế mạnh không quân, chỉ trong vài giờ đầu tiên của cuộc chiến, các máy bay Israel dội bom xuống nhiều sân bay Aicập phá hỏng khoảng 400 máy bay chiến đấu các loại, chủ yếu là từ Mig-17 đến Mig-21 do Liên Xô sản xuất.
Bị tấn công bất ngờ, không lực Ai Cập không kịp trở tay, bầu trời Bán đảo Sinai nhanh chóng bị Israel khống chế. Do các máy bay chiến đấu của Aicập đỗ trên khoảng trống sân bay, không hề có hầm thép bảo vệ nên bị hư hỏng nhiều do bom, đạn của không lực Israel.
Tại mặt trận phía đông, xe tăng và bộ binh Israel nhanh chóng đè bẹp sức kháng cự của Jordani ở Bờ Tây và đông Jerusalem. Tại mặt trận phía bắc, Syria lúc đầu lưỡng lự không muốn tham chiến. Nhưng sau do nhận được tin sai lầm rằng quân đội Israel bị Aicập làm suy yếu, Syria tham chiến một cách dè dặt.
Không lực Israel sau khi đánh bại Aicập ở phía nam liền quay lên tấn công sâu trong lãnh thổ Syria. Chỉ trong một đêm 5/6/1967, Israel phá hủy đến 2/3 số máy bay chiến đấu của Syria.
Sau sáu ngày chiến tranh, Israel chiếm được nhiều vùng đất Arập gồm Bán đảo Sinai trong đó có Dải Gaza của Ai cập, Bờ Tây và phần phía đông Jerusalem của Jordani, Cao nguyên Golan của Syria.
Năm 1973, chiến tranh lần thứ tư giữa Israel và liên minh Arập do Syria và Aicập dẫn đầu. Lúc đầu Aicập và Syria tiến quân giành lại được Cao nguyên Golan và Bán đảo Sinai.
Sau hai tuần, quân Israel đẩy được Syria ra khỏi Cao nguyên Golan, và Aicập ra khỏi Bán đảo Sinai. LHQ can thiệp dẫn đến ngừng bắn giữa các bên tham chiến. Tuy nhiên, Israel vẫn chiếm Dải Gaza từ năm 1967-1994 mới trả lại cho Palestine theo Hiệp định Oslo.

An exchange of fire is seen between the area of the Erez Crossing and Beit Lahiya in the northern Gaza Strip early January 4, 2009. (REUTERS/Amir Cohen (ISRAEL) #


16Leaflets dropped by Israeli planes are seen falling above the northern Gaza Strip as seen from the Israel side of the border with Gaza, Saturday, Jan. 3, 2009. (AP Photo/Tara Todras-Whitehill) #
Tiến trình hòa bình Trung Đông bế tắc
Trong số gần 1,5 triệu dân ở Dải Gaza ngày nay, có 500 người Nga và người các nước cộng hòa thuộc Liên Xô trước đây. Những người này đa số là vợ hoặc chồng của những sinh viên người Arập Palestine sang học tập ở Liên Xô. Khoảng một triệu người trong số còn lại là người Arập Palestine di tản hồi hương.
Sau Hiệp định Oslo 1993, Israel trả lại nhiều vùng lãnh thổ mà nước này chiếm được của các nước Arập trong đó có Bán đảo Sinai trả cho Aicập và Dải Gaza cho Palestine trong các nỗ lực đổi đất lấy hòa bình. Jerusalem và một phần Bờ Tây đặt dưới sự kiểm soát của quốc tế.
Theo đó, Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO) do Chủ tịch Yeser Arafat đứng đầu đã tiếp quản Dải Gaza tuy nhiên Israel vẫn kiểm soát đường không, đường biển và đường biên giới phía nam giữa Gaza với AiCập.
Năm 2000, dưới sự trung gian hòa giải của Mỹ, Palestine và Israel suýt ký được hiệp ước hòa bình tại hội nghị thượng đỉnh ở Camp David (Hoa Kỳ). Hiệp ước hòa bình Camp David không được ký kết do Palestine và Israel bất đồng về hai vấn đề mấu chốt là chủ quyền đối với Jerusalem và vấn đề hồi hương người tị nạn Israel gốc Arập.
Năm 2004, Chủ tịch Y. Arafat qua đời, PLO chia thành hai phe Fatah và Hamas, trở nên mâu thuẫn nhau gay gắt. Phái Fatah do Tổng thống M. Abbas lãnh đạo, trong khi phái cứng rắn Hamas do Ismail Haniyeh đứng đầu.
Năm 2006, Hamas giành thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử, lên thành lập chính quyền ở Palestine. Hamas không thừa nhận sự tồn tại của Israel, mâu thuẫn với Fatah dẫn đến đẩy đuổi lực lượng an ninh của Fatah khỏi Gaza để toàn quyền kiểm soát vùng đất này.
Từ đây phát sinh mâu thuẫn giữa chính phủ do Hamas đứng đầu với Fatah. Israel không chấp nhận Hamas, khiến mâu thuẫn giữa hai bên ngày càng gay gắt dẫn đến đỉnh điểm là cuộc chiến tranh giữa Israel và Dải Gaza hiện nay, đẩy tiến trình hòa bình Trung Đông rơi vào bế tắc.

http://www.tienphong.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=148897&ChannelID=5
Trước hết, chúng ta cần nhớ lại rằng: những vụ xung đột giữa Do thái (được Hoa kỳ ủng hộ) và Palestine (được khối Ả rập giúp đỡ) đã xẩy ra từ hơn năm 50 năm nay, nghĩa là từ lúc Do thái thành lập quốc gia, sau đệ nhị thế chiến (1939-1945). Theo quyết nghị của LHQ (năm 1946), Do thái và Palestine là hai quốc gia độc lập với biên giới rõ ràng. Nhưng quyết nghị của LHQ không bao giờ được thi hành. Khối Ả rập không thể chịu nổi sự hiện diện của một quốc gia Do thái trong miền Trung Ðông, vì đây là một đe dọa liên lỉ cho các nước trong vùng này. Tuy nhiên, mỗi lần khối Ả rập gây chiến muốn đánh bật Do thái ra khỏi miền này, đều bị thất bại nặng nề. Chiến tranh chớp nhoáng năm 1967, Do thái chiếm miền Cisjordanie, và Gaza... và chiến tranh khủng khiếp năm 1975, Do thái chiếm cả miền Sinai và len lỏi vào tận thủ đô Cairô của Ai cập, làm tê liệt các đài radar kiểm soát. Ai cập là một quốc gia hùng mạnh hơn cả trong miền, đã phải ký hòa ước với Do thái. Các quốc gia khác không thể đương đầu với Do thái được. Irak, Iran ...giầu có và hùng mạnh, chắc chắn không quên gương thất bại của Ai cập. Hơn nữa Irak đã có bài học "chiến tranh trừng phạt chớp nhoáng" cách đây 10 năm. Hơn nữa, trong lúc này, Irak và Iran bị Hoa kỳ tố cáo ủng hộ các nhóm khủng bố và cung cấp vũ khí cho Palestine. Hoa kỳ không những cảnh cáo, nhưng cùng với Anh quốc quyết định phải loại bỏ Tổng Thống Saddam Hussein của Irak. Cũng trong những ngày này, Tổng thống Hoa kỳ và Ngoại trưởng Do thái, ông Simon Peres, yêu cầu Chủ tịch Arafat lên án khủng bố, nhưng không bao giờ ông làm. Ngoại trưởng Hòa kỳ, ông Powell Collin đang trên đường đi Trung Ðông để giàn xếp vần đề Do thái và Palestine. Trước khi đến Giêrusalem, ông qua các nước Maroc, Ai cập, Jordanie, Arabie Saudite (các quốc gia ôn hòa của Khối Ả rập) để tham khảo ý kiến. Arabie Saudite đã đưa ra một số đề nghị về hòa bình, để giải quyết vụ tranh chấp vô tận giữa Do thái và Palestine, trong đó có việc công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Do thái về phía các nước Khối Ả rập và bảo đảm an ninh lãnh thổ Do thái, bên cạnh Quốc gia Palestine độc lập. Sáng kiến của Arabie Saudite đã được Khối Ả rập thảo luận tại Beyrouth trong tuần vừa qua. Ngoại trưởng Hoa kỳ cũng gặp Thủ tướng Tây ban nha, vì Tây ban nha đang giữ chức chủ tịch Khối Liên hiệp Châu Âu trong lục cá nguyệt này.
Sau những cuộc tham khảo, Ngoại trưởng Hoa kỳ sẽ tới Giêrusalem để thảo luận với Chính phủ Do thái. Trước khi lên đường từ Hoa kỳ, ngoại trưởng tuyên bố như sau: "Trong chương trình không có mục gặp gỡ và thảo luận với Chủ tịch Arafat". Trong những ngày vừa qua Tổng thống Bush tuyên bố: "Ông Arafat đã làm tôi thất vọng". Trong bài phỏng vấn dành cho nhật báo Le Figaro của Pháp, được tờ "Tin Chiều" (Corriere della sera) (07/04/2002) của Ý thuật lại, Bộ trưởng Ngoại giao Do thái tuyên bố: "Ông Arafat là người bạn của chúng tôi, nhưng ông đã không cư xử đúng như vậy. Ông đã được dân Palestine bầu lên, chúng tôi không thay đổi được; nhưng ông phải tôn trọng các hòa ước đã ký kết, chiến đấu chống khủng bố. Mỗi lần chúng tôi tìm hiểu lập trường của ông, đều phạm một lỗi lầm không thể chấp nhận được. Thí dụ, trong lời kêu gọi của ông, ông ước mong có "triệu triệu vị tử đạo cho Giêrusalem". Chúng tôi biết rõ rằng: không bao giờ ông ra lệnh cho 30 ngàn cảnh sát của ông chiến đấu chống khủng bố. Tướng Zinni (đại diện Hoa kỳ trong cuộc đàm phán với Do thái-Palestine) yêu cầu ông tuyên bố đình chiến cách rõ ràng, ông đã không làm".
Những lời tuyên bố của các nhân vật quan trọng trong cuộc, có thể định đoạt số phận của lãnh tụ Arafat. Xem ra Hoa kỳ và chính Thủ tướng Do thái muốn thảo luận để chấm dứt chiến tranh với cấp lãnh đạo mới, ôn hòa hơn, vì không còn tín nhiệm ông Arafat nữa. Báo chí cũng viết: Ðáng lẽ Ông Arafat đã phải ký hiệp ước hòa bình với Do thái, thời Tổng Thống Clinton và Thủ tướng Do thái, ông Barak, thuộc Ðảng Lao động, vì có lợi nhiều cho Palestine; nhưng ông đã không ký, mà muốn trì hoãn để đòi thêm hơn nữa. Thủ tướng Sharon (thuộc Ðảng Bảo thủ cực hữu, là người đã muốn loại bỏ Ông Arafat cách đây 20 năm trong lúc chiến tranh với Liban, và xem ra không đội trời chung với ông Arafat được. Trong những ngày này, quân đội Do thái cô lập Ông Arafat tại Ramallah, như một người bị quản thúc tại gia, không cho tiếp xúc với phái đoàn Liên hiệp Châu Âu.
Ông Arafat và các đồng minh Khối Ả rập của Ông (gồm 22 quốc gia với trên 100 triệu dân cư) biết rằng: không thể trực tiếp đương đầu với Do thái được, một quốc gia nhỏ bé với 6 triệu dân, nhưng lại có một lực lượng quân sự rất hùng hậu và được trang bị rất đầy đủ bằng các vũ khí tối tân nhất: 600 ngàn quân (1/10 dân số) --- trong số này có 425 ngàn quân trù bị---. Quân đội Do Thái được trang bị bằng 3,900 xe tăng - 9,600 xe thiết giáp - 435 phi cơ chiến đấu tối tân - 130 trực thăng - và khoảng 100 hỏa tiễn.
Trong cuộc hành quân từ 29 tháng 3 năm 2002, Do thái ra lệnh động viên 20 ngàn quân trù bị. Con số binh sĩ đang chiến đấu trong lúc này gồm có: 130 ngàn bộ binh - 36 ngàn không quân - và 6,500 thủy quân. Palestine không có quân đội chính qui, chỉ có lực lượng cảnh sát, gồm khoảng từ 35 đến 45 ngàn, được trang bị bằng loại súng thường và liên thanh.
Trong những ngày tấn công vũ bão của Do thái để tiêu diệt các ổ khủng bố và tịch thu vũ khí bất hợp pháp của Palestine, không một quốc gia hội viên trong Khối Ả rập tình nguyện gửi quân giúp Palestine, ngoài những lời tuyên bố hứa hẹn của chủ tịch Gedaffi của Libia. Ðể tiêu diệt Do thái, Ông Arafat và các nhóm đồng minh của Ông chỉ có phương tiện duy nhất: đó là khủng bố bừa bãi tại các thành phố, nhằm giết hại người dân. Vì không thể tha thứ những vụ khủng bố tàn nhẫn như vậy được, Do thái bắt buộc phải trả đũa bằng các vụ oanh tạc lãnh thổ Palestine và trong những ngày này bằng những cuộc hành quân qui mô và toàn diện để diệt trừ khủng bố, bảo đảm an ninh cho người dân. Nhờ hành động cương quyết diệt trừ khủng bố này, uy tín của Thủ tướng Sharon, trước kia đã bị sụt tới 44%, và nay lên đến 77%.
Ðứng trước chiến tranh mỗi ngày mỗi trở nên dữ dội hơn, LHQ hầu như bất lực. Khối Liên hiệp Châu Âu bị Do thái coi thường. Trong những ngày vừa qua, Thủ tướng Sharon không cho phái đoàn Liên hiệp Châu Âu tiếp xúc với Chủ tịch Arafat. Trước tình hình nguy ngập và bế tắc này, Ðức Gioan Phaolô II nói: "Không một người nào được phép yên lặng hay lãnh đạm trước những đau khổ của các dân tộc này". Ngài đã lên tiếng nhiều lần kêu gọi hai phe tranh chấp đình chiến, ngồi vào bàn hội nghị. Trong những ngày vừa qua, Tòa Thánh hoạt động ráo riết trong lãnh vực ngoại giao, và yêu cầu Hoa kỳ can thiệp gấp. Tổng Thống Bush lên tiếng yêu cầu Do thái rút quân khỏi các lãnh thổ chiếm đóng. Thủ tướng Sharon xem ra không chấp nhận, ít ra lúc này, lời kêu gọi khẩn cấp của Hoa kỳ. Ông vẫn tiếp tục các cuộc hành quân, để có thể thanh toán các nhóm khủng bố. Một lần nữa, Tổng Thống Bush yêu cầu rút quân tức khắc. Do thái vẫn tiếp tục đường lối của mình. Ðể thuyết phục Do thài, Tổng Thống Bush và Thủ tướng Anh Tony Blair tuyên bố: "Do thái phải biết rằng: chúng tôi là người bạn tốt nhất của Do thái". Hy vọng Thủ tướng Sharon không bỏ qua lời kêu gọi này.
Ông Simon Peres, Bộ trưởng ngoại giao Do thái, trong bài phỏng vấn dành cho Le Figaro, tuyên bố: "Cuộc hành quân kéo dài hai hay ba tuần, kể từ lúc khởi sự (29/03/2002). Chúng tôi đang làm cái đáng lẽ Ông Arafat đã phải làm" (nghĩa là diệt trừ khủng bố). Cho tới lúc này, Do thái đã chiếm hầu hết các thành phố lớn và tin sau cùng của Ðài truyền hình Ý (sáng thứ hai 08/04/2002), cho hay: quân đội Do thái tấn công vào Ðền thờ Giáng sinh tại Betlem, trong đó có dân quân Palestine trú ẩn mang theo cả vũ khí. Tu viện các Cha Phanxicô, canh giữ Thánh địa kế bên, cũng bị liên lụy.
Trước tình hình nguy ngập này, loài người xem ra bất lực. Nhưng đối với ÐTC, vũ khí sắc bén hơn cả đem lại hòa bình vẫn là lời cầu nguyện. Thứ năm 04/04/2002, trong bức thư gửi cho Ðức Hồng Y Angelo Sodano, Quốc vụ khanh, để xin huy động các Giám mục trên thế giới Công Giáo, cùng nhau cầu nguyện cho hòa bình tại Trung Ðông, ÐTC viết như sau: "Ở đâu vũ khí và ngoại giao thất bại, thì chỉ mình Thiên Chúa có thể thay đổi tâm hồn con người được mà thôi, nhất là tâm hồn của những người có trách nhiệm và quyền hành, để thực hiện những bước cần thiết, cho dù phải trả giá cao, để đưa các phe tranh chấp đến những thỏa ước công bình và xứng đáng phẩm giá cho mọi người" (L'Osservatore Romano 6/04/2002 ).
Nhìn lại dĩ vãng, ngày cầu nguyện tháng 10 năm 1986 tại Assisi đã làm chế độ cộng sản Trung-Ðông-Âu sụp đổ nhanh chóng, không ai dám nghĩ tới. Ngày cầu nguyện tháng 3 năm 1993, cũng tại Assisi, để chấm dứt chiến tranh diệt chủng tàn bạo tại miền Balcan. Chiến tranh đã chấm dứt. Quân đội LHQ bảo vệ an ninh. Dân chúng được sống bình an, tuy còn nhiều tàn phá, đổ nát. Sau cuộc khủng bố dữ dội tại New York và Washington, một lần nữa ÐTC huy động ăn chay (14/12/2001) và cầu nguyện với đại diện các Giáo hội Kitô và các Tôn giáo thế giới ngày 24 tháng Giêng năm 2002 tại Assisi. Từ đó, không ai dám hô hào "thánh chiến, chiến tranh tôn giáo", để che đậy chính sách khủng bố của mình. Chúng ta hy vọng: chiến tranh Do thái-Palestine, với lời cầu nguyện của toàn Giáo hội, sẽ chấm dứt trong tương lai gần đây, để hai dân tộc được sống trong bình an mỗi người trong quốc gia riêng của mình. 

HÒA BÌNH GÌ GIỮA DO THÁI VÀ PALESTINE?
Cuộc nổi dậy (intifada) lần thứ nhì của người Palestine sống trên giải đất Gaza (giải Gaza) và Tây ngạn sông Jordan (Tây ngạn) từ tháng 9 năm 2000 chuyển qua một bước ngoặc quyết liệt từ ngày 29 tháng 3 năm 2002.
Trong khi các nước A Rập đang họp thượng đỉnh tại Beirut và hoàng thân Abdullah của Saudi Arabia đưa ra một sáng kiến hòa bình (khối các nước A Rập công nhận nước Do thái, đổi lại Do Thái trả lại đất đã chiếm trong cuộc chiến năm 1967 gồm vùng đất cao Golan, giải Gaza, Tây ngạn, công nhận sự ra đời của nước Palestine và để người Palestine bỏ đất ra đi trong cuộc chiến năm 1967 được trở về) thì quân đội Do thái tấn công Ramalllah, thủ đô của chính quyền tạm thời Palestine thành hình do thỏa ước Oslo ký năm 1993. Quân đội Do Thái phong tỏa khu làm việc của ông Yasser Arafat và dọa bắt ông đi đày, đồng thời tấn công vào các thành phố của Palestine, bắt giữ tất cả thanh niên và bắn tại chỗ những người tình nghi khủng bố trong đó có một số sĩ quan cảnh sát Palestine.
Thỏa ước Oslo (thương thuyết kín tại Oslo, thủ đô Na Uy) và ký tại Hoa Thịnh Đốn ngày 13/9/1993 giữa thủ tướng Do thái Yitzhak Rabin và chủ tịch Palestine Yasser Arafat công nhận sự hình thành một nước Palestine (gồm hai phần đất Gaza và Tây ngạn) đồng thời đặt căn bản giải quyết trong 5 năm qui chế thành phố Jeruselem và các khu định cư của người Do Thái trong giải Gaza và Tây ngạn, hai vùng đất họ đã chiếm trong trận chiến năm 1967 và từ đó không ngừng di dân đến lập thành các khu định cư trù phú dưới sự che chở của quân đội. Thỏa ước Oslo cũng dự liệu giải quyết vấn đề biên giới và các vấn đề an ninh khác.
Theo thỏa ước Oslo và các thỏa thuận chi tiết sau đó (Oslo 1 ngày 4/5/1994 tại Cairo, Oslo 2 ngày 28/9/1995 tại Washington D.C.) chính quyền dân cử Palestine kiểm soát một số thành phố và đất đai người Palestine đang sinh sống và các khu tị nạn tổng số chừng 29% đất Gaza và Tây ngạn gộp lại. 71% còn lại gồm các khu định cư Do thái, căn cứ quân sự, các trục lộ giao thông chính và đất đai thiên nhiên thuộc quyền kiểm soát của Do Thái. Do thái sẽ chuyển nhượng dần dần cho Palestine tùy theo tình hình an ninh và khả năng quản lý của chính quyền Palestine.
Giải pháp Oslo là kết quả của một cuộc tranh đấu kiên trì của người Palestine từ năm 1967 và nhất là từ năm 1987 khi dân Palestine sống trong vùng Gaza và Tây ngạn chấp nhận hy sinh xương máu công khai nổi dậy chống sự chiếm đất của Do Thái. Qua giải pháp Oslo hai bên nhìn nhận một thực tế. Cả hai bên đều mệt mỏi và phải chấp nhận lẫn nhau. Palestine công nhận sự hiện diện của một nước Do thái tại Trung Đông, ngược lại Do thái công nhận quyền lập quốc của người Palestine và hứa giao trả đất đai đã chiếm.
Nhưng có hai yếu tố làm cho thỏa ước Oslo không thi hành được. Thứ nhất, không có giải pháp dứt khoát cho hai vấn đề then chốt là tương lai các khu người Do thái đã khai phá và qui chế thành phố Jerusalem hai bên đều giành làm thủ đô. Thành phần cực hữu Do Thái chính yếu là thành phần đã lập những khu định cư tại Gaza và Tây ngạn lo sợ cho tương lai sống cạnh một nước Palestine thù nghịch nên tìm cách phá sự thi hành thỏa ước Oslo. Thứ hai là Hoa Kỳ, quốc gia có nhiều ảnh hưởng trong cuộc tranh chấp, không có một chính sách công bình đối với người Palestine dưới áp lực của khối người Mỹ gốc Do thái. Mỗi lần sắp đến kỳ bầu cử tổng thống hay bầu cử quốc hội giữa hai nhiệm kỳ tổng thống, các tổng thống Hoa Kỳ thường chọn thái độ nghiêng về Do Thái. Ảnh hưởng của người Do thái tại Hoa Kỳ không những chỉ bằng lá phiếu của người Mỹ gốc Do thái mà còn bằng sức mạnh tài chánh và truyền thông người Mỹ gốc Do Thái nắm trong tay.
Ngày 4/11/1995 thủ tướng Rabin bị một người Do thái quá khích bắn chết khi đang thi hành từng bước thoả ước Oslo. Sáu tháng sau (tháng 5/1996) ông Benjamin Netanyahu thuộc đảng cực hữu Likud đắc cử thủ tướng. Ông Netanyahu không làm gì khác hơn là ngăn trở việc thi hành thỏa ước Oslo cho rằng thỏa ước không bảo đảm an ninh lâu dài cho Do Thái. Tháng 3 năm 1997 ông Netanyahu lấy cớ cần đất định cư người Do thái trở về từ Liên bang Nga đã cho thiết lập thêm những khu định cư mới tại Tây ngạn và tại đông Jerusalem bất chấp sự phản đối của người Palestine. Đáp lại các cuộc khủng bố của người Palestine chống lại người Do Thái gia tăng.
Mãi đến tháng 10 năm 1998 qua một thượng đỉnh tại Wye (bang Maryland, Hoa Kỳ) do tổng thống Bill Clinton bảo trợ Arafat bằng lòng tu chính Hiến chương của Tổ chức giải Phóng Palestine (như đã cam kết trên nguyên tắc trong thỏa ước Oslo) bãi bỏ điều khoản qui định sự triệt tiêu nước Israel, đổi lại thủ tướng Netanyahu thuận nhường thêm 13% đất trong vùng Tây ngạn (gọi là thỏa ước Wye).
Chính sách bất nhất của Netanyahu vừa phá thỏa ước Oslo, vừa nhượng bộ làm Netanyahu mất chức thủ tướng vào tay ông Ehud Barak thuộc đảng Lao động trong cuộc bầu cử ngày 17/5/1999. Thủ tướng Barak một mặt theo con đường tìm kiếm hòa bình trong khuôn khổ hiệp ước Oslo và thỏa ước Wye đồng thời mở rộng thái độ hòa giải với Syria (nhưng bất thành do bất đồng ý kiến về chủ quyền đồi cao Golan), một mặt âm thầm để các thành phần cực hữu tiếp tục xây dựng thêm các khu định cư mới trong vùng Tây ngạn.
Đáp lại, tháng 12/1999 Arafat ngưng các cuộc thương thuyết với Do Thái. Gần một năm sau (tháng 8 năm 2000), trước khi mãn nhiệm kỳ 2 tổng thống Bill Clinton làm một nổâ lực cuối cùng mời Arafat và Barah đến Hoa Thịnh Đốn. Một giải pháp được thành hình qua đó vấn đề các khu định cư được giải quyết tương đối ổn thỏa nhưng Do thái (với sự ủng hộ của Hoa Kỳ) đòi hỏi Arafat từ bỏ quyền lấy Đông Jerusalem làm thủ đô tương lai của nước Palestine. Arafat không chấp nhận điều kiện này. Bill Clinton bất mãn và trước áp lực của cử tri gốc Do thái đã công khai đổ lỗi cho Arafat làm hỏng một cơ hội có thể mang hòa bình đến cho vùng Trung Đông. Thái độ này của ông Clinton khuyến khích chủ tịch đảng Likuk, cựu tướng Ariel Sharon trong tháng 9/2000 khiêu khích người Hồi giáo bằng cách đến viếng thánh đường Mount của người Hồi giáo tại Đông Jerusalem xem như đất của mình. Trước thái độ thách thức này, toàn dân Palestine nổi dậy dùng tay không, đá và súng cao su để chống lại các lực lượng chiếm đóng Do thái. Đây là cuộc nổi dậy (intifada) lần thứ nhì sau cuộc nổi dậy năm 1987. Ngày 20/10/2000 thủ tướng Barak ngưng mọi cuộc thương thuyết với Yasser Arafat.
Trước bế tắc, chỉ còn viễn ảnh chiến tranh, tướng hồi hưu Ariel Sharon đắc cử thủ tướng Do thái trong cuộc bầu cử tháng 2 năm 2001. Tại Hoa Kỳ tân tổng thống George W. Bush (nhiệm chức đầu năm 2001) bình chân như vại chống tay ngồi đợi Sharon thanh toán cuộc nổi dậy của Palestine, ngoài những việc làm lấy lệ để qua mắt dư luận như cử cựu Thượng Nghị Sĩ George Mitchell (Dân chủ) và giám đốc CIA George Tenet qua Trung Đông nghiên cứu kế hoạch giải quyết.
Được sự đồng ý mặc nhiên của Hoa Kỳ Ariel Sharon tiếp tục thiết lập các khu định cư, đàn áp chính quyền Palestine bằng những hành động coi thường dư luận thế giới như bắn phá các đồn cảnh sát của chính quyền Palestine, phá hủy phương tiện di chuyển của ông Arafat và giam lỏng ông ta tại thành phố Ramallah ở Tây ngạn. Người Palestine không còn phương tiện tự vệ nào khác hơn là ôm bom tự sát để chống lại.
Trong khi đó nhu cầu chống khủng bố toàn cầu sau cuộc khủng bố ngày11 tháng 9 năm 2001 (và sự chiến thắng chính quyền Taliban tại Afghanistan tương đối dễ dàng) làm cho tổng thống Bush muốn nhìn thấy thế thượng phong tuyệt đối tại Trung Đông của Do thái và sự ra đi của Yasser Arafat, một người ông liệt vào thành phần khủng bố, trước khi ông có những hành động mạnh hơn đối với Iraq. Đó có thể là nguyên nhân đưa đến cuộc tấn công tiêu diệt các lực lượng Palestine, và làm nhục ông Yasser Arafat của thủ tướng Sharon.
Chờ cho đến lúc chính quyền Palestine không còn gì sau 5 ngày bị Do Thái tấn công quyết liệt, hôm 2/4/2002 tổng thống Bush mới lên tiếng can thiệp và quyết định gởi bộ trưởng ngoại giao Colin Powell đi Trung đông tìm kiếm hòa bình. Nhưng Colin Powell có thể tìm thấy thứ hòa bình gì? Một nước Palestine da beo gồm vài chục thành phố lớn nhỏ (như những reservations của người da đỏ ở lục địa Hoa Kỳ) nằm rải rác giữa những khu định cư trù phú của người Do thái?
Nếu vậy thì người Palestine, dù còn Yasser Arafat lãnh đạo hay không, vẫn sẽ tiếp tục cuộc chiến đấu giành độc lập và vùng Trung đông sẽ là lò lửa của chiến tranh. Điều nguy hiểm cho thế giới là sau cuộc tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001, cuộc chiến đấu tương lai của người Palestine chống lại người Do thái có thể sẽ biến thành cuộc chiến tranh giữa khối Hồi giáo và Hoa Kỳ.
Hòa bình chỉ có thể đến tại Trung Đông nếu người Do thái hủy bỏ các khu định cư tại Tây ngạn và giải Gaza và người Palestine có một quốc gia đất liền đất sông liền sông. Và hai nước chấp nhận sống hài hòa bên nhau trong cộng đồng thế giới. Do Thái không có gì phải lo sợ. Vì Hoa Kỳ, và sức mạnh của khối người Mỹ gốc Do thái còn đó.Bước qua năm 2005 hai vấn đề quan tâm lớn nhất trên thế giới là việc cứu trợ những nạn nhân tại Á châu do vụ động đất và sóng thần ngày 26/12/2004 và nền an ninh của thế giới trong đó nét nổi bật nhất là cuộc chiến chống khủng bố của Hoa Kỳ.
Liên quan đến vấn đề an ninh của Hoa Kỳ, bốn mươi (40) người Mỹ đa số là giáo sư đại học vừa bày tỏ ý kiến về một giải pháp bảo vệ an ninh của nước Mỹ qua một quảng cáo đăng trên tờ The Economist số đầu năm (Jan. 1st – 7th. 2005 – trang 8).
Các nhân vật đó là: Robert Art (Brandeis University), Andrew J. Bacevich (Boston University), Dong Bandow (nguyên phụ tá đặc biệt của tổng thống Ronald Reagan), Nicolas Berry (giám đốc Foreign Policy Forum), Richard Bets (Columbia University), Michael E. Brown (Georgetown University), Juan R. Cole (University of Michigan), Michael Desch (Texas A&M University), Michael Doyle (Columbia University), Carolyn Eisenberg (Hofstra University), Sumit Ganguly (Indiana University), Paul Gessing (Teh Free Liberal), Leon Hadar (tác giả cuốn Sandstorm: POlicy Failure in the Middle East), David Hendrickson (Colorado College), George Herring (University of Kentucky), Joseph P. Hoar (Tướng U.S.M.C. hồi hưu), Stanley Hoffmann (Harvard University), Samuel Huntington (Harvard University), G. John Ikenberry (Princeton University), Robert Jervis (Columbia University), Miles Kahler (UC San Diego), Stuart Kaufman ( University of Delaware), Peter F. Krogh (Georgetwon University), Christopher Layne (bình luận gia, The American Conservatvie), Anatol Lieven (Carnegie Endownment), Ian Lustick (University of Pennsylvania), Scott McConnell (Executive Editor, The American Conservative), John J. Mearsheimer (University of Chicago), Andrew Moravcsik (Princeton University), Augustus Richard Norton (Boston University), Edward L. Peck (Cựu đại sứ Hoa Kỳ), John L. Peterson (chủ tịch, The Arlington Institute), William B. Quandt (University of Virginia), Paul Schroeder (University of Illinois, Urbana-Champaign), Tony Smith (Tufts University), Stephen Van Erera (MIT), Jon Basil Utley (người chủ trương ConservativesForPeace.com), Stepehn Walt (Harvard Unicersity), Kenneth Waltz (Columbia University), William Wohlforth (Dartmouth College).
Ý kiến của quý vị giáo sư và nhân sĩ trên tóm tắt như sau:
Chúng tôi, tuy quá trình chính trị và trình độ nhận thức khác nhau, đồng ý với nhau rằng chính sách Trung đông hiện nay của Hoa Kỳ không phục vụ quyền lợi quốc gia, không thể biện minh về mặt đạo lý và tối hậu không mang lại lợi ích gì cho nhân dân trong vùng.
Hoa Kỳ có hai mục tiêu an ninh quan trọng tại Trung đông:
1. Thắng mạng lưới khủng bố Al Qaeda của Osama bin Laden
2. Bảo đảm không mất nguồn dầu hỏa ở đó.
Cả hai mục tiêu trên đều bị đe dọa bởi cuộc tranh chấp không có giải pháp giữa Do Thái và Palestine.
Chính sách của thủ tướng Ariel Sharon tiếp tục chiếm giữ một phần lớn đất của vùng Tây ngạn (West Bank) và duy trì những khu định cư Do Thái ở đó có hại cho quyền lợi của Hoa Kỳ ở Trung đông. Dân Palestine sống trong những vùng đất (vốn của họ) hiện do người Do Thái kiểm soát không thể quyết định tương lai chính trị của mình làm cho người A Rập và người Hồi giáo mất cảm tình với người Mỹ và làm cho cuộc chiến chống khủng bố của chúng ta gặp khó khăn. Ông Yasser Arafat hoặc vì bất lực, hoặc vì không muốn ngăn chận sự khủng bố người Do Thái cũng như thất bại trong việc tổ chức một chính quyền hữu hiệu đã góp phần làm cho cuộc tranh chấp Do Thái – Palestine kéo dài, nên sự ra đi của ông mới đây có thể giúp tìm một giải pháp. Chúng tôi tin rằng tìm một giải pháp chấm dứt cuộc xung đột Do Thái - Palestine sẽ giúp cho Washington bảo vệ quyền lợi của mình trên nhiều bình diện.
Mấy cuộc thăm dò ý kiến mới đây do Shibley Telhami của đại học Maryland và viện Brookings Institute cho thấy Hoa Kỳ mất nhiều cảm tình của dân chúng trong vùng Trung đông. Ngay trong những nước có truyền thống đồng minh với Hoa Kỳ như Ai Cập, Jordan và Saudi Arabia cũng có từ 79 đến 95% người dân không thích Hoa Kỳ. Bảy mươi lăm phần trăm nói rằng họ ghét Hoa Kỳ vì họ cho rằng cuộc chiến tranh Do Thái - Palestine không có giải pháp vì Hoa Kỳ đã bênh vực Do Thái vô điều kiện.
Tổng thống Bush đã góp phần không nhỏ làm cho dân Trung đông có cảm nghĩ trên. Ông thường cho cuộc chiến chống al Qaeda và cuộc chiến Do Thái chống Palestine chỉ là hai mặt của một cuộc chiến. Ông quan hệ chính trị với những thành cực đoan Do Thái chủ trương một nước Do Thái lớn rộng hơn. Ông đã làm ngơ trước hành động mở thêm các khu định cư Do Thái trong vùng Tây ngạn. Và mới đây ông ủng hộ đề nghị của ông Sharon đơn phương sát nhập một phần Tây ngạn trước khi Do Thái đưa ra một giải pháp chính trị (đơn phương rút ra khỏi giải đất Gaza *).
Người Mỹ cần ý thức rằng nếu chúng ta bị thù ghét tại Trung đông thì rất khó cho chúng ta thực hiện những mục tiêu an ninh quốc gia tại đó.
Trước hết hãy xem xét cuộc chiến chống bọn khủng bố al Qaeda. Mặc dù Osama bin Laden nói mục đích đấu tranh của anh ta không phải là đuổi người Do Thái mà là đuổi những người “không có đạo Hồi” (infidels) ra khỏi thánh địa của Hồi giáo, cuộc chiến tranh Do Thái - Palestine cũng làm cho chúng ta khó phá vỡ mạng lưới của anh ta. Để có thể thắng cuộc chiến khủng bố toàn cầu Hoa Kỳ cần làm việc với các nước Trung đông có cùng quyền lợi địa lý và kinh tế với Hoa Kỳ và chúng ta phải thuyết phục người A Rập và người Hồi giáo đừng có nghe Osama bin Laden mà chống Hoa Kỳ. Khổ nổi, chúng ta không có đồng minh và chúng ta nói không ai nghe vì người ta cảm nhận rằng chúng ta ủng hộ người Do Thái chiếm giữ đất của người A Rập trong đó có vùng thánh địa linh thiêng hàng thứ ba của người Hồi giáo ở Jerusalem.
Cuộc chiến tranh Do Thái - Palestine nhì nhằng là mối đe dọa nguồn dầu hỏa Trung đông rẻ tiền tối quan trọng cho nền kinh tế Hoa Kỳ. Đừng quên rằng trước đây các nước sản xuất dầu hỏa (OPEC) đã dùng dầu hỏa như một vũ khí để trừng phạt các nước bênh vực Do Thái trong cuộc chiến tranh giữa các nước A Rập và Do Thái (năm 1967 & 1973 *). Đương nhiên vì quyền lợi kinh tế, các nước Trung đông - trừ một vài nước A Rập quá khích - sẽ tiếp tục bán dầu hỏa cho thế giới, nhưng cuộc tranh chấp Do Thái - Palestine vẫn là một yếu tố có thể ảnh hưởng đến việc mua dầu hỏa của chúng ta.
Bây giờ nhìn về mặt tài chánh của cuộc chiến Do Thái - Palestine. Từ năm 1973 đến nay Hoa Kỳ viện trợ cho Do Thái 200 tỉ mỹ kim (theo thời giá năm 2001), và nếu tính các chi phí yểm trợ khác số tiền đó càng cao hơn nữa. Mỗi năm Hoa Kỳ tiêu hằng tỉ mỹ kim tiền thuế của dân tại Trung đông, nhưng hòa bình càng ngày càng xa và Hoa Kỳ vẫn được xem là một người trung gian không lương thiện. Vì quyền lợi của người đóng thuế và để trở thành một lực lượng không thiên vị trong vùng Hoa Kỳ cần xét lại chính sách viện trợ tại Trung đông.
Có ý kiến cho rằng Hoa Kỳ nên bớt can thiệp vào cuộc tranh chấp Do Thái - Palestine. Thực tế cũng chứng tỏ rằng Hoa Kỳ càng ít xâm lo các phe liên hệ càng dễ đạt đến giải pháp. Chúng ta càng can thiệp các phe liên hệ càng ỷ lại trong khi những kẻ bàng quan nhìn chúng ta như một người cảnh sát quốc tế. Nhưng cũng có ý kiến rằng Hoa Kỳ cần can thiệp, nhưng nên can thiệp một cách không thiên vị để giải quyết cuộc tranh chấp. Một điều không may là chính quyền Bush không thành công khi hành động. Bush đã can thiệp một cách tích cực, nhưng chỉ áp lực phía Palestine và làm cho chính quyền Likud của ông Ariel Sharon hiểu rằng họ không cần nhượng bộ gì ở vùng Tây ngạn cả.
Chúng tôi ký bản nhận định này, hiểu rằng không phải vì mất cảm tình tại Trung đông mà Hoa Kỳ nên phủi tay ra đi. Chúng tôi nghĩ Hoa Kỳ cần giúp hai bên thương thuyết một giải pháp chấm dứt sự chiếm đóng vùng Tây ngạn bởi người Do Thái. Giải pháp thương thuyết này gồm:
1. Nhìn nhận một ranh giới quốc gia của người Palestine như ranh giới đã đồng ý với nhau tại Taba tháng Giêng năm 2001 để định hình lãnh thổ của một nước Palestine trong hầu hết vùng Tây ngạn và giải đất Gaza (ranh giới này là đường chia cắt giữa Do Thái và vùng Tây Ngạn sông Jordan trước cuộc chiến tranh năm 1967 *)
2. Quốc tế bảo đảm an ninh của Do Thái bằng cách chấp nhận xây một bức tường ngăn cách theo đường ranh năm 1967 chứ không phải là đường ranh Do Thái đang xây rào chắn.
3. Quốc tế khuyến khích và giúp đỡ người Palestine thành lập một chính quyền hữu hiệu và có trách nhiệm, nhất là lực lượng an ninh nội bộ, để cai trị đất nước.
Tôi nghĩ những ai quan tâm đến sự công bình và hòa bình thế giới và sự an toàn lâu dài của Mỹ quốc đều thấy ý kiến của quý vị giáo sư và những nhân sĩ nêu trên là những ý kiến khả dĩ có thể thực hiện.
Mọi người đều có lợi và thế giới có hòa bình.Trần Bình Nam



20An Israeli army mortar team launches a round at a Palestinian target inside the Gaza Strip January 1, 2009 as seen from Israel's border with the Hamas-run territory. (David Silverman/Getty Images) #

21Palestinian firemen work amongst the rubble of the destroyed house of Hamas senior leader Nizar Rayan after an Israeli missiles strike in the refugee camp of Jabaliyaon January 1, 2009 in Gaza, Gaza Strip. (Abid Katib/Getty Images) #

22A rocket fired by Palestinian militants from the northern Gaza Strip flies towards an Israeli target Friday, Jan. 2, 2009. (AP Photo/Bernat Armangue) #

23An Israel soldier walks at a staging area just outside the Gaza Strip, Friday, Jan. 2, 2009. (AP Photo/Sebastian Scheiner) #

Debris flies up as a bomb explodes after an Israeli air strike in the northern Gaza Strip January 3, 2009. (REUTERS/Nikola Solic (GAZA) #


25An Israeli army soldier stands next to artillery shells at a staging area on the Israel side of the border with Gaza Strip, Sunday, Jan. 4, 2009. (AP Photo/Bernat Armangue) #
BÊN BỜ VỰC CHIẾN TRANH
Cuộc tranh chấp giữa người Do thái với các nước láng giềng đã bước sang tuần thứ hai với hàng trăm người dân vô tội của cả hai bên bị chết thảm giữa lằn đạn vô tình của hai phe. Và mức độ chiến tranh ngày một gia tăng mà chưa thấy có một hy vọng nào sẽ được giải quyết trong thời gian ngắn. Mỗi ngày cả thế giới phải nhìn thấy những cảnh bom đạn vô tình bắn phá và hình ảnh thê thảm của những người dân vô tội bị kẹt giữa tai họa chiến tranh trên các màn ảnh TV hay báo chí mà đành phải bó tay, không cách gì cứu giúp. Các nhà lãnh đạo trên thế giới đều đã lên tiếng đồng thanh yêu cầu cả hai bên phải tự chế và cố gắng tránh gây thiệt hại cho các thường dân, nhưng những lời kêu gọi này chưa mang lại một chút đáp ứng nào vì dường như cả hai bên cũng đều bị kẹt cứng trong vị thế của mình mà chỉ một phe thôi không thể ngưng tay trước và như vậy, chiến tranh vẫn tiếp diễn.
Mầm mống tranh chấp giữa Do thái với hai nước láng giềng Palestine và Li băng đã có ngay từ thời lập quốc của các quốc gia này, gần 60 năm qua, họ đã phải miễn cưỡng sống bên cạnh nhau, lúc nào cũng phải thủ thế và sẵn sàng lăn lưng vào cuộc chiến để có thể tồn tại. Vụ một nhóm người Palestine vũ trang tấn công và bắt cóc một người lính Do thái ngày 25 tháng 06 chỉ là một nguyên nhân cần thiết để chính thức làm bùng nổ cuộc chiến đã âm ỉ từ hơn một năm qua.
Quốc gia Lebanon mà chúng ta thường gọi là nước Li băng được đế quốc Pháp trả quyền độc lập từ năm 1946. Cộng hòa Li băng được lãnh đạo bởi các thế lực tôn giáo với một nửa là các người Kitô giáo kể cả Công giáo và một nửa kia gồm Hồi giáo Sunni và Shi'a, quốc gia trẻ tuổi này còn bị ảnh hưởng bởi nhà cầm quyền Syria và nhiều thế lực Hồi giáo khác trong thế giới Ả rập cho nên ngay từ bản chất đã có những tranh chấp không thể giải quyết. Vào năm 1948, bằng những vận động mạnh mẽ của người Do thái trên khắp thế giới, Liên Hiệp quốc đã thông qua một nghị quyết cho phép thành lập quốc gia Do thái trên phần đất mà những người Palestine đang sinh sống. Nghị quyết này đã vô tình xua đuổi các người Palestine phải tản mạn sang các vùng đất khác, đa số trở thành vong quốc ngay trên đất nước của mình, một số đông trốn lên miền nam Li băng để thành lập tổ chức Giải phóng Palestine do ông Arafat lãnh đạo. Từ tổ chức PLO, một nhóm các người Hồi giáo cực đoan cũng đã hình thành tổ chức Hezbollah võ trang, có sức mạnh chính trị trong quốc hội và chính quyền và sinh hoạt độc lập ngay trong quốc gia Li băng. Tại Palestine cũng có một nhóm vũ trang cực đoan Hamas hoạt động song song với chính phủ Palestine, vào tháng giêng năm nay, qua một cuộc bầu cử tự do và phổ thông, tổ chức này chiếm được đa số ghế trong quốc hội để trở thành một chính quyền thứ hai cũng ngay trong quốc gia Palestine. Cả nhóm Hamas và Hezbollah đều không chấp nhận quốc gia Do thái và sẵn sàng làm bất cứ việc gì để xóa bỏ nước Do thái, cả hai thế lực này đều được yểm trợ bởi các tổ chức khủng bố quốc tế trong đó nổi bật nhất là hai nước Syria và Iran.
Từ hiện tình đó, chúng ta có thể hiểu ngay được là chiến tranh nếu có xảy ra giữa người Do thái và Li băng với sự khích động của Hezbollah và Palestine với chủ trương của Hamas là điều tất nhiên phải có.
Cùng với sự gia tăng nhịp độ và cường độ của các cuộc khủng bố ở khắp mọi nơi, cả thế giới đều cảm thấy bị đe dọa và cuộc chiến tranh chống khủng bố do Hoa kỳ lãnh đạo đã dần trở nên có chính nghĩa. Vì vậy đối với tình hình Trung đông hiện nay, đa số các quốc gia đều không mạnh mẽ chỉ trích Do thái như đã từng có trong các trận chiến trước đây, ngay cả một số nước Ả rập cũng ngầm có ý mong Do thái nhân cơ hội này mà diệt trừ nhóm khủng bố Hezbollah bởi vì nhóm này cũng như nhiều nhóm khủng bố Hồi giáo cực đoan đã đi ra khỏi mọi ảnh hưởng kiểm soát của các quốc gia Hồi giáo rồi. Người ta còn tiên đoán rằng chỉ khi nào số vũ khí tồn trữ của Hezbollah được dùng hết và mọi nguồn cung cấp vũ khí cho họ bị cắt đứt thì mới mong có sự ngưng chiến mà thôi. Cả hai chính quyền Li băng và Palestine đều bị bó tay trong hoàn cảnh hiện tại, cho dù cả hai đều có thiện chí để giải quyết vần đề, như đã chứng tỏ trong thời gian trước đây, nhưng họ đã không thể ra lệnh cho các nhóm khủng bố quá khích phải ngừng tay, và họ vô tình cũng đã trở thành nạn nhân của cuộc tranh chấp.
Có thể tình hình hiện nay sẽ mỗi ngày một trở nên tồi tệ hơn, những thế lực hòa giải quốc tế khó mà có thể thuyết phục được cả hai bên đều đồng ý ngưng chiến, và có thể có một vài nước lân cận nóng lòng muốn nhảy vào can thiệp để vô tình làm thành một cuộc thế giới chiến tranh. Tuy vậy chúng ta có thể hy vọng rằng cả hai phe lâm chiến đều biết rằng vũ lực không thể giải quyết được gì như họ từng kinh nghiệm trong một nửa thế kỷ vừa qua để họ tự chế bằng cách nào đó, tạm ngưng tay để suy nghĩ lại và để cho những người dân vô tội hiện đang bị kẹt giữa làn đạn chiến tranh có cơ hội tránh xa khỏi nơi tranh chấp. Chúng ta cầu mong tất cả những nhà lãnh đạo trên thế giới cố gắng dùng mọi khả năng và ảnh hưởng để thuyết phục hai phe lâm chiến tránh đổ bom đạn trên các khu vực dân cư. Trong bất cứ một cuộc chiến tranh nào, tất cả mọi phe liên hệ đều thiệt hại, nhưng đáng thương hơn cả là những thường dân vô tội, vì thế mà Liên hiệp quốc cũng đã ra những nghị quyết chỉ định rõ những điều phải tránh để khỏi gây thiệt hại cho người dân, cầu mong sao những người lâm chiến biết tôn trọng những luật lệ này.
Trong lúc này chúng ta cần thêm lời cầu nguyện để cho tình hình bớt tệ hại hơn để cho thế giới tránh được những hành động phiêu lưu để khỏi gây ra một cuộc chiến lớn hơn.Nguyễn Việt

Gaza - máu và nước mắtHậu quả chính trị của cuộc chiến Gaza
Khi mở một loạt các cuộc tấn công trừng phạt ở Gaza từ tuần trước tới nay, rõ ràng Israel muốn giáng cho Hamas một thất bại nặng nề mà khiến nhóm vũ trang Hồi giáo này không thể sớm phục hồi. Theo các chuyên gia, chiến dịch này có thể thành công song cũng có thể phản tác dụng. Dù thành công hay thất bại, chiến dịch tấn công Gaza sẽ mang lại hậu quả chính trị xấu đối với toàn khu vực, và thử thách hơn nữa khả năng của Tổng thống Mỹ mới đắc cử Obama theo đuổi mục tiêu bình ổn Trung Đông thông qua chính sách ngoại giao mà ông đã tuyên bố.
Mục tiêu của Israel
Mặc dù giới chức Israel không tuyên bố các mục tiêu rộng hơn của chiến tranh, song rõ ràng nước này hy vọng rằng chiến dịch tấn công Gaza sẽ không chỉ giúp ngăn chặn việc các chiến binh ở Gaza nã tên lửa vào Israel. Hy vọng lớn hơn là rằng đánh bại Hamas sẽ làm mất địa vị hợp pháp của giới lãnh đạo nhóm này trong con mắt của người Palestine cũng như khiến Hamas không còn đủ sức để cản trở tiến trình hòa bình Trung Đông.
Một chiến thắng đối với Israel cũng sẽ tạo điều kiện để Ai Cập, Jordan và các nước khác trong vực tuyên bố chống lại Hamas và Iran - quốc gia tài trợ chính của Hamas ở Trung Đông. Sau đó, theo như cựu Đại sứ Mỹ Martin Indyk ở Israel, một lực lượng hòa bình quốc tế gồm quân đội Thổ Nhĩ Kỳ và Ảrập có thể dọn đường để Tổng thống Palestine khôi phục lại quyền kiểm soát chính trị ở Gaza.
Tiếp theo, Israel và Palestine sẽ ký kết một hiệp định hòa bình và sau đó có lẽ là hiệp định hòa bình giữa Israel và Syria, khiến Iran bị cô lập đằng sau vùng đệm là một Iraq hòa bình và dân chủ.
Iran tài trợ cho Hamas và Hezbollah không chỉ nhằm phá hoại Israel mà còn gây ảnh hưởng trong thế giới Ảrập. Đánh bại Hamas một cách thuyết phục sẽ góp phần phá tan chiến lược đó cũng như khả năng của Iran chống lại áp lực của phương Tây trong mọi cuộc đàm phán về chương trình hạt nhân. ’’Đó là một viễn cảnh đầy tham vọng và đòi hỏi mọi thứ trở nên tồi tệ hơn trước khi có thể tốt hơn’’, Indyk nói.
Khó giành chiến thắng
Tuy nhiên, theo các chuyên gia về Trung đông, các cuộc tấn công Gaza của Israel cũng có thể thất bại hoàn toàn và lịch sử cho thấy khả năng thất bại chắc sẽ cao hơn thành công.
Các cuộc tấn công đã khiến cả thế giới Ảrập phẫn nộ vì cảnh chết chóc và hoang tàn ở Gaza, đồng thời nêu bật những sự chia rẽ ở Trung Đông - những chia rẽ mà có thể ngăn cản các nước Ảrập hợp tác với Israel.
Tất nhiên, Ai Cập, nước đã ký hiệp định hòa bình với Israel, đã gần như đóng cửa hoàn toàn biên giới với Gaza hồi tuần trước và Tổng thống Hosniu Mubarak của nước này đã công khai cãi vã với lãnh đạo Hezbollah - nhóm chiến binh Shiite do Iran hậu thuẫn và đang chia sẻ quyền lực ở Lebanon. Và tại một hội nghị của Liên đoàn Ảrập, Ngoại trưởng Ảrập Xê-út đã nhẹ nhàng và gián tiếp chỉ trích Hamas về việc kích động cuộc xung đột. Những hành động trên hoàn toàn có lợi cho Israel.
Tuy nhiên, các cuộc tấn công Gaza cũng khiến người dân Ảrập chỉ trích chính phủ Ai Cập cũng như chính phủ của các nước Ảrập ôn hòa khác. Điều đó có nghĩa là mâu thuẫn gia tăng giữa chính phủ và người dân tại các nước liên minh với Mỹ trên danh nghĩa và sẵn sàng đàm phán với Israel. Những hình ảnh chết chóc ở Gaza có thể tạo ra sự thù ghét mới và gia tăng số người quá khích.
Ở một vài khía cạnh, các cuộc tấn công Gaza tương tự như canh bạc mà Israel đã chơi ở Lebanon trong năm 1982 và gần như thua cuộc trong canh bạc đó. Israel đã xâm lược Lebanon để tiêu diệt mối đe dọa từ lực lượng của ông Yasser Arafat. Lúc đó, lực lượng này đang đóng ở biên giới phía bắc của Israel. Israel đã đạt được mục tiêu này, buộc ông Arafat phải sống lưu vong ở Tunis và cuối cùng ông đã công nhận và đàm phán với Israel. Tuy nhiên, cũng vào lúc đó, một mối đe dọa mới đối với Israel chào đời ở Lebanon dưới dạng Hezbollah. Biên giới phía bắc của Israel vẫn không an toàn và ảnh hưởng của Iran đã tăng lên.
Hiện tại, ông Abbas, vốn mẫu thuẫn sâu sắc với Hamas, có thể càng bị cô lập nếu các cuộc tấn công của Israel càng kéo dài. Đã xuất hiện những dấu hiệu về sự phản kháng ngày càng tăng của người Palestine, buộc ông Abbas phải nói rằng ông sẵn sàng từ bỏ tiến trình hòa bình Trung Đông mà Tổng thống Bush tái khởi động ở Annapolis, Maryland, hồi năm 2007.
Mustafa Barghouti, một nghị sĩ Palestine độc lập, nói rằng giải pháp lâu dài duy nhất một thỏa thuận hòa bình trong đó có sự tham gia của Hamas. ’’Có hai cách đối phó với Hamas. Một cách là chống lại họ. Điều này chỉ khiến họ cực đoan hơn mà thôi. Cách thứ hai là chấp nhận họ trong tiến trình chính trị’’.
Chấp nhận Hamas sẽ khiến các chiến binh Hồi giáo ở Ai Cập và Jordan phấn khích và khiến giới lãnh đạo của hai nước này rùng mình. Hành động đó cũng sẽ khiến Iran tăng cường quyết tâm đạt được tham vọng bá chủ trong khu vực và tiếp tục chương trình hạt nhân gây tranh cãi.
Hầu hết các nhà phân tích cho rằng thỏa thuận ngừng bắn tiếp theo giữa Israel và Hamas là không tránh khỏi vì Israel dường như không sẵn sàng hoặc không thể tái chiếm đóng Gaza và thay thế giới lãnh đạo của vùng lãnh thổ này. Điều đó sẽ để lại cho Hamas nhiều người ủng hộ họ ở Gaza ngay cả khi hàng ngũ của nhóm này bị đánh tả tơi.
’’Hamas không thực sự bị tổn thất vì giới lãnh đạo và các trung tâm quyền lực chính thức của họ đã ẩn trốn. Chính người dân Gaza mới là những người đang phải trả giá’’, Ziad Asali, Chủ tịch Ủy ban đặc nhiệm Mỹ về Palestine, nói.
Sai lầm của Israel

Daniel Levy, một nhà phân tích Israel thuộc New America Foundation, nói rằng thiếu sót trong chiến lược của Israel chính là niềm tin rằng người dân ở Gaza sẽ đổ lỗi cho Hamas, chứ không phải Israel, về làn sóng bạo lực mới này.
Về phần mình, Israel quyết tâm tránh thảm họa chính trị và quân sự như đã từng xảy ra ở Lebanon năm 2006. Cuộc chiến đó nhằm chấm dứt các cuộc tấn công bằng tên lửa xuyên biên giới của Hezbollah và chẳng khác gì các cuộc tấn công của Hamas. Cuộc chiến với Hezbollah kết thúc bằng một nghị quyết của LHQ và lính gìn giữ hòa bình quốc tế song cuối cùng Hezbollah cũng tái vũ trang.
Lần này, Israel dường như chuẩn bị tốt hơn. Quân đội nước này đang theo đuổi một chiến dịch tấn công có phương pháp, kết hợp với chiến tranh tuyên truyền và cố gắng giảm thiểu thương vong cho dân thường.
Cuộc xung đột Gaza xảy ra trước khi Obama nhậm chức vào ngày 20/1 và chắc chắn đẩy xung đột Israel và thế giới Ảrập lên vị trí hàng đầu trong chương trình nghị sự ngoại giao của chính quyền Obama. Chương trình này hiện đầy các cuộc khủng hoảng đối ngoại, từ Iran, Ấn Độ cho tới Triều Tiên.
Có khả năng cuộc chiến Gaza sẽ kết thúc trước ngày 20/1. Nếu vậy, Tổng thống Obama sẽ có thể tận dụng thỏa thuận ngừng bắn mới này để thúc đẩy một hiệp định hòa bình vĩnh viễn giữa Israel và Palestine.

VỀ CUỘC XUNG ĐỘT ISRAEL-PALESTINE
Cuộc xung đột Israel-Palestine đã và đang diễn hơn 60 năm rồi, đã có vô số sách báo, tài liệu viết về nó. Tuy nhiên do sự không cân bằng trong việc phổ biến và giải thích tin tức của giới truyền thông, vẫn còn có không ít những ngộ nhận đây đó trong dư luận về tính chất của cuộc xung đột cũng như lập trường của các bên liên quan; đặc biệt là về mối quan hệ Mỹ-Israel và ảnh hưởng của người Mỹ gốc Do Thái lên các chính sách của Mỹ quanh cuộc xung đột. Bài viết vắn tắt này là một nổ lực khiêm tốn góp phần tim hiểu thêm về mối quan hệ và ảnh hưởng đó, ngỏ hầu giúp xoá bớt một số ngộ nhận đã có từ lâu nay.
SƠ LƯỢC LỊCH SỬ ISRAEL-PALESTINE
Các thư tịch khảo cổ cho thấy rằng tổ tiên người Do Thái (Hebrews, Jews, hay Israelis) đã hiện diện trên vùng đất có tên là Canaan( gồm Israel, West Bank và một phần Jordan ngày nay) từ khoảng 1800 năm trước Công Nguyên(BC). Cực thịnh là vương quốc Do Thái (Israelite kingdom) dưới thời vua David khoảng 1000 năm trước CN với Jerusalem là thủ đô.
Nhưng rồi sau đó, vương quốc Do Thái lần lượt bị các đế quốc Assyrians (720 BC), Babylonians (khoảng năm 580 BC), Ba-Tư và Hy-Lạp (khoảng năm 320 BC) xâm chiếm. Nhiều người Do Thái bị lưu đày ra khỏi vùng đất Canaan.
Đến khoảng năm 200BC, người Do Thái lại phục hồi được vương quốc quanh vùng Palestine ngày nay với Jerusalem làm thủ phủ. Sự tự trị này chấm dứt năm 61BC khi đế quốc Roma đến xâm chiếm, trục xuất người Do Thái ra khỏi Jerusalem. Đế quốc Roma cai trị vùng này cho đến khoảng năm 320 sau Công Nguyên (320 AD).Chính dưới thời cai trị của Roma mà tên Palestine ra đời. Sau đế quốc Roman, đến lượt đế quốc Byzantine của Syrian chiếm cứ và cai trị vùng Palestine cho đến khi bị Hồi Giáo đánh đuổi.
Qua thế kỷ thứ 7AD thì các đế quốc Hồi Giáo bắt đầu làm chủ phần lớn Trung Đông và các bản đảo Arabs, trong đó có cả vùng Palestine. Trong hàng chục thế kỷ tiếp theo, Hồi Giáo và Thập Tự Quân (Crusaders) thay nhau làm chủ khu vực. Jerusalem trở thành vừa là thánh địa của Do Thái Giáo(Judaism), Ky-tô Giáo, và cả của Hồi Giáo (Islam).
Đế quốc Ottoman của người Thổ Nhỉ Kỳ chinh phục toàn bộ Trung Đông năm 1517 và tồn tại cho đến khi Đệ Nhất Thế Chiến kết thúc năm 1918.
Như vậy, kể từ năm 61AD trở đi vương quốc Do Thái đã biến mất trên bản đồ Trung Đông, dân Do Thái lưu tán ra khắp nơi, và không còn là cư dân chính của vùng Palestine trong hàng ngàn năm.Đến cuối thời đế quốc Ottoman, năm 1918, số lượng người Jews sinh sống ở vùng Palestine còn lại rất ít, chừng khoảng 30,000 trên tổng số gần 500,000 dân cư.
Người Palestinians xuất hiện cùng thời với người DoThái, nhưng ở dọc theo duyên hải giữa Địa Trung Hải và vùng sông Jordan. Thời xưa họ còn được gọi là người Philistine, không thờ cùng God với người Do Thái, nhưng thờ các thần khác. Người Palestinians là một trong những chiến sĩ đầu tiên biết xữ dụng binh khí bằng sắt trong những cuộc chiến chống lại King David của người Do Thái. Thời LaMã cai trị, Kitô giáo được truyền bá rộng rãi và có nhiều người Palestinians theo. Sau đó, dưới sự cai trị của đế quốc Ottoman, Hồi Giáo lại là tôn giáo chính của đa số người Palestinians.
Đệ I Thế Chiến bùng nổ, Thổ đứng về phe Tam cường Liên Minh Đức-Áo-Thổ (Triple Alliances) chống lại phe Tam Cường Đồng Minh Anh-Pháp-Nga ( Triple Entente). Anh Quốc rất quan tâm đến vùng Trung Đông, xem đó là vùng chiến lược vì là nguồn dầu hỏa, là đầu cầu dẩn vào Ấn Độ, thuộc địa quan trọng và béo bỡ nhất của đế quốc Anh, và kênh đào Suez. Để củng cố lực lượng của mình trong Vùng, Anh Quốc bèn hứa với dân Arabs là sẽ giúp họ thoát khỏi sự cai trị của đế quốc Ottoman của Thổ để được độc lập một khi chiến tranh kết thúc. Một mặt khác Anh Quốc, do nổ lực vận động của Zionist Organization, một tổ chức của người Jews (DoThái) có khuynh hướng bài Nga thân Đức, cũng hứa với người Jews (Do Thái), qua tuyên bố Balfour (Balfour Declaration) năm 1917, sẽ giúp họ thành lập một quốc gia trên vùng Palestine. [1]
Khi Đệ I Thế Chiến kết thúc, Anh quốc không giữ lời hứa trao trả độc lập cho người Arabs. Trái lại, Anh-Pháp trước đó đã ký mật ước Sykes-Picot (George Picot, phiá Pháp và Mark Sykes, phía Anh) chia phần với nhau, theo đó Pháp kiểm soát một phần Turkey, Syria, Bắc Iraq, và Lebanon; trong khi Anh cai quản Nam Iraq, Jordan và vùng phía Bắc Israel ngày nay. Ngoài ra, trên danh nghĩa, Anh được Hội Quốc Liên (League of Nations) trao quyền Uỷ trị (mandate) vùng Palestine. Kể từ đó người Jews (Do thái) từ các nơi trên thế giới, với sự che chở của Anh quốc, bắt đầu về định cư ở vùng Palestine. Ngay ở giai đoạn này, sự định cư của người Do Thái đã gây ra nhiều sự chống đối từ người Palestinians là dân cư ngụ ở đó từ lâu đời. Năm 1922 khi người Anh làm thống kê dân số vùng Palestine thì có khoảng 84,000 người Do Thái, chừng 670,000 ngưòi Palestinians trong đó có hơn 70,000 người theo Kitô Giáo.
Năm 1947, Liên Hiệp Quốc tùy tiện phân chia vùng Palestine, trao cho người Do Thái hơn một nửa lãnh thổ Palestine để lập quốc; chừa lại hai vùng West Bank, nằm gần sông Jordan và Gaza, nằm dọc biển Địa Trung Hải, cho người Palestinians. Hai vùng West Bank và Gaza nằm hai bên lãnh thổ của Israel, cách nhau chừng hơn 40 km.
QUAN HỆ ISRAEL-MỸ
Có thể nói ngay rằng quan hệ Israel-Mỹ là một quan hệ song phương đặc biệt có một không hai trong chính trường quốc tế trong hơn nửa thế kỷ qua. Israel là quốc gia nhận nhiều viện trợ kinh tế quân sư nhất từ Mỹ.Trung bình mỗi năm Mỹ viện trợ trực tiếp cho Israel chừng 3 tỉ dollars, với dân số chỉ hơn 6 triệu người, mức viện trợ như vậy tính ra mổi người dân Israel được hưởng gần 500 dollars/ năm! Theo Green Book của USAID (US Agency for International Development) thì tính cho đến năm 2003, Mỹ đã viện trợ tổng cộng lên đến 140 tỉ dollars cho Israel [2]
Đặc biệt hơn nữa là trong khi các quốc gia khác nhận viện trợ theo từng tam cá nguyệt, Israel được nhận trọn gói ngay từ đầu năm. Về viện trợ quân sự, các quốc gia nhận viện trợ chỉ được phép xử dụng tiền viện trợ ngay trên đất Mỹ; nghĩa là phải mua lại quân trang, quân dụng, vũ khí từ các công ty Mỹ. Trong khi đó Israel lại được quyền xử dụng 25% tài khoản viện trợ quân sự để tài trợ cho kỷ nghệ quốc phòng của riêng mình, đồng thời không cần báo cáo cho phía Mỹ cách thức chi tiêu ngân khoản viện trợ quân sự Israel đã nhận. Mỹ cũng ưu tiên tài trợ cho Israel trong việc chế tạo các loại vũ khí tối tân, được tham khảo bản vẽ các loại vũ khí mới, như bản vẽ phi cơ trực thăng Blackhawk hoặc phản lực cơ F.16 chẳng hạn. Nổi bật nhất là Mỹ đã làm ngơ cho Israel nghiên cứu và chế tạo thành công bom nguyên tử[3], đã tìm cách ngăn cản không cho khối Arabs đưa vấn đề nguyên tử của Israel ra trước Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (International Atomic Energy Agency).
Về mặt ngoại giao, tính đến nay, Mỹ đã dùng quyền phủ quyết (veto) 40 lần tại Hội Đồng Bảo An LHQ để bảo vệ cho Israel trước những nghị quyết bất lợi của Hội Đồng này[4]. Mỹ cũng luôn đứng về phiá Israel trong tất cả các cuộc xung đột từ trước đến nay giữa nước này và các quốc gia Arab và dân Palestine. Mỹ cũng ngay cả ủng hộ Israel trong việc chiếm đóng, một cách bất công và trái phép, West Bank và Gaza strip, của người Palestien trong cuộc chiến 6 ngày năm 1967.
LÝ DO CÔNG KHAI CỦA VIỆC MỸ ỦNG HỘ ISRAEL
Một cách chính thức, các giới chức và dư luận báo chí Mỹ thường đưa ra các lý do sau đây để giải thích cho mối quan hệ đặc biệt Mỹ-Israel:
1.- Israel là Đồng minh Chiến lược: Đây là lý do đầu tiên được chính giới Mỹ viện dẫn nhiều lần, nhất là các nghị sĩ, dân biểu trong Quốc Hội. Trong suốt thời Chiến Tranh Lạnh, Israel là một đồng minh quan trọng trong việc ngăn chận sự lan tràn ảnh hưởng của Liên Sô vào Trung Đông. Trong cuộc chiến tranh 6 ngày năm 1967, Israel với sự viện trợ của Mỹ đã chiến thắng Egypt và Syria do Liên Sô hậu thuẩn. Cuộc chiến này là một nổi nhục nhã cho các nước Arabs, đồng thời làm sút giảm uy tín của Liên Sô trong Vùng.
Israel cũng là một nguồn tình báo quan trọng cho Mỹ trong việc theo dõi các hoạt động quân sự của Liên Sô.
Uỷ ban American-Israel Publich Affair Committee (AIPAC) đã từng cho rằng:” Mỹ và Israel đã hình thành một sự hợp tác đặc thù để đáp ứng với những đe dọa chiến lược đang gia tăng ở Trung Đông… Nổ lực hợp tác này mang lại những lợi ích quan trọng cho cả hai bên “ (The US and Israel have formed a unique partnership to meet the growing strategic threats in Middle East… This cooperative effort provides significant benefits for both US and Israel)[5] Điều đó ám chỉ về vai trò vị trí tiền tiêu của Israel trong thế chiến lược của Mỹ ở Trung Đông giữa khối dân Arabs đông đảo.
2.-Ủng hộ một nước nhỏ bị bao vây giữa các nước lớn ở chung quanh, một dân tộc đã bị bách hại nặng nề trong Đệ Nhị Thế Chiến dưới chế độ Đức Quốc Xã. Dư luận Mỹ luôn đem so sánh mối tương quan Israel-Arabs với thế đối địch bất cân xứng giữa chàng tí hon Davis và người khổng lồ Goliath trong Cựu Ước Kinh. Cuộc tàn sát, có tên là Holocaust, theo đó chế độ Hitler được báo cáo là đã giết 6 triệu người Jews, đã được các học giả Mỹ xử dụng như là nền tảng đạo đức của việc phục hồi và bảo vệ nước Israel cho người Do Thái.
(Một chi tiết nhỏ cần lưu ý là ở Mỹ và các nước Âu Châu, một người có thể công khai tuyên bố tại nơi công cộng là:” không có Chúa, hay Thượng Đế!” mà không gặp bất cứ một rắc rối pháp lý nào cả. Nhưng nếu tuyên bố rằng :” không hề có Holocaust!” là chắc chắn sẽ bị phiền phức, phải ra toà và không chừng còn bị tù. Không hiểu tại sao như vậy?)
3.-Ủng hộ một chế độ Dân chủ: Một lý do chính trị khác trong việc Mỹ hậu thuẩn cho Israel là vì dư luận Mỹ cho rằng Israel là chế độ dân chủ tiến bộ, mẫu mực nhất ở Trung Đông, cần phải bảo vệ cho chế độ ấy tồn tại giữa sự bao vây của các chế độ chuyên chế trong Vùng.
4.-Người Jews là một dân tộc hiếu hoà, thông minh, có một lịch sử lâu đời. Do Thái Giáo có mối quan hệ rất gần gủi với các tôn giáo lớn của Tây Phương như Công Giáo, Tin Lành, v.v…Trong khi đó dưới mắt dư luận Mỹ, các dân tộc Arabs thường hiếu chiến, bạo động, có khuynh hướng khủng bố, kém ý thức dân chủ, và nhất là theo Hồi Giáo; một tôn giáo có một lịch sử lâu dài đối địch với Ki-tô Giáo.
Trên đây là những lý do mà chính khách, học giới và truyền thông Mỹ, từ suốt mấy chục năm qua, thường dùng để công khai biện minh cho mối quan hệ hữu nghị có một không hai Mỹ-Israel. Tuy nhiên, phân tích kỷ, người ta không khỏi không thấy những điểm gượng gạo trong các lý do trên.
Chẳng hạn, vai trò đồng minh chiến lược có thể ít nhiều có giá trị trước đây khi khối Cộng Sản Liên Sô còn tồn tại.Nhưng, ngay ở điểm này cũng cần phải chú ý rằng Israel không phải là yếu tố duy nhất ngăn chận sự lan rộng ảnh hưởng của cộng sản trong Vùng; chính là vai trò văn hoá và tôn giáo của khối Ả rập đã làm cho chủ thuyết Marxist-Leninist không xâm nhập được. Hơn nữa, nay Chiến Tranh Lạnh đã kết thúc, khối Liên Sô đã sụp đổ gần hai thập niên rồi, không còn một đối thủ nào dòm ngó, uy hiếp ảnh hưởng của Mỹ ở Trung Đông nữa, vậy tại sao sự gắn bó Israel-Mỹ vẫn không thay đổi?
Về chế độ Dân chủ ở Israel thì cũng có nhiều vấn đền chưa được giới truyền thông Mỹ phân tích sâu rộng và vô tư. Đối với nhiều người, nói đến Dân Chủ là nói đến sinh hoạt chính trị có hơn một đảng trở lên, có các cuộc phổ thông đầu phiếu để người công dân bầu lên người đại diện của mình.
Tuy nhiên, một nền Dân chủ đúng nghĩa không chỉ dừng lại ở cơ cấu đảng phái và quyền đầu phiếu. Những đòi hỏi khác quan trọng không kém và là nền tảng cho sinh hoạt chính trị dân chủ là sự bình đẳng giữa các thành viên trong xã hội, là những nhân quyền căn bản được tôn trọng. Nhiều báo cáo của các tổ chức quốc tế như Hội Ân Xá Quốc Tế( Amnesty International) hay Uỷ ban về các quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hoá của Liên Hiệp Quốc( UN Committee on Economic, Social and Cultural Rights) cho thấy ở Israel không có sự bình đẳng xã hội. Những ai đã quen với xã hội hợp chủng ở Mỹ chắc sẽ rất ngạc nhiên và bất bình trước tính cách kỳ thị chủng tộc mạnh mẽ trong xã hội Israel[6]. Chỉ có người Jews chính gốc dựa trên nguyên tắc huyết hệ ( the principle of blood kinship) mới thật sự là công dân Israel được hưởng đầy đủ mọi quyền lợi và sự che chở của Nhà Nước. Ngay cả những người Arabs kết hôn với người Israeli cũng không được trở thành công dân Israel và cư trú ở đó. Người Arabs, hiện có đến chừng 1.3 triệu ở Israel, và các dân thiểu số khác ở Israel, chỉ là công dân hạng hai, không được hưởng những quyền sỡ hữu về đất đai ngang với những người Jews. Các thăm dò dư luận giữa dân Israel cho thấy có đến hơn 57% người Jews không chấp nhận sự bình đẳng với các sắc dân khác và chỉ muốn trục xuất tất cả người Arabs ra khỏi lãnh thổ Israel.
Ngoài ra, một báo cáo của Thông Tín Viên Đặc Biệt của Liên Hiệp Quốc ( UN Special Rapporteur) ghi ngày25/8/2008 về tình hình nhân quyền của người Palestine ở trong những vùng Israel chiếm đóng từ cuộc chiến tranh 6 ngày năm 1967 cho thấy rằng chính phủ Israel đã có những vi phạm trầm trọng luật nhân quyền quốc tế đối với người Palestine trong vùng lãnh thổ chiếm đóng, nhất là ở vùng West Bank và Gaza. Cuộc chiếm đóng 40 năm của Israel đã tước đi hầu hết những dân quyền căn bản của người Palestine về pháp lý, giáo dục, y tế, kinh tế và văn hoá, gây những hậu quả xã hội nghiêm trọng và lâu dài cho người Palestine.[7]
Những sự kiện trên đây cho thấy rằng dân Jews, hay Israeli, không là dân tộc hiếu hoà, như giới truyền thông Mỹ đã luôn quảng bá. Đúng là họ có một lịch sử lâu dài và rất thông minh, nhưng họ cũng rất hiếu chiến và không kém phần độc ác so với bất kỳ dân Arabs nào khác. Trong những ngày đầu mới thành hình, các tổ chức Zionists của người Jews cũng đã xử dùng sự khủng bố (terrorism) làm phương cách hoạt động để đạt các mục đích của mình, giết hại nhiều thường dân vô tội, hay ngay cả như ám sát Hoà Giải Viên của Liên Hiệp Quốc Kể, Quận Công Folke Bernadotte năm 1948, chẳng hạn, chỉ vì ông này đề nghị Quốc tế hoá thành phố Jerusalem. Từ ngày lập quốc, năm 1948, Israel đã gây ra nhiều cuộc chiến tranh, nhiều trăm ngàn người Palestine đã bị giết, hàng triệu người khác đã bị tước đoạt hết đất đai, sống tha phương trong các trại tị nạn, nhiều ngàn nhà thờ Hồi giáo trong Vùng đã bị phá huỷ.
Ngoài ra,cuộc chiến tranh 6 ngày năm 1967, và sau này cuộc chiến tranh Yom Kippur (tên một ngày lễ của Israel) năm 1973 cho thấy rằng Israel đối với các nước Arabs không phải là một chàng Davis nhỏ nhắn trước một anh khổng lồ Golliah. Sự so sánh đó chỉ đúng trên phương diện dân số và diện tích đất đai lúc đầu vào năm 1948. Nhưng xét trên bình diện khả năng quân sự thì Israel không phải là một nước yếu nhược đứng trước các cường quốc. Trái lại, Israel là một cường quốc nguyên tử với kinh tế phát triển, hoả lực và vũ khí tối tân luôn luôn áp đảo các nước Arabs với vũ khí thô sơ và kinh tế kém phát triển. Điều này trái ngược với lý do thứ 2 nêu ở trên rằng Mỹ phải ủng hộ Israel vì nước này yếu đuối đứng trước sự đe doạ của khối Arabs đông đảo và ở thế mạnh.
Tóm lại , những lý do thường được công khai viện dẫn cho các chính sách của Mỹ đối với Israel là không phù hợp với thực tế, không giải thích được một cách thỏa đáng câu hỏi căn bản về mối quan hệ đặc biệt của hai quốc gia. Trái lại những phân tích khách quan các sự kiện lịch sử cho thấy có hai khía cạnh khác, sâu xa và kín đáo hơn, ít được công luận biết đến, của mối quan hệ Mỹ-Israel; đó là:
1-Mỹ muốn chế ngự Trung Đông và kho dầu lửa của nó, và để đạt mục đích đó, Mỹ đã xử dụng con bài Israel trong chiến lược cân bằng quyền lực từ xa (off-hand balance of powers); chiến lược này ít ra đã áp dụng được cho đến khi chiến tranh Iraq xảy ra năm 2003, khi Mỹ phải trực tiếp can thiệp.
2.- Do tham vọng tái lập một nước Isreal Lớn , người Do Thái đã nổ lực vận động hành lang (Jewish Lobby) để hướng dư luận và chính sách của Mỹ vào mục tiêu đó.
KHỐNG CHẾ TRUNG ĐÔNG
Động lực chính yếu khiến Mỹ luôn xem trọng và quyết tâm duy trì mối quan hệ chặt chẻ với Israel; đó là độc tôn khống chế nguồn dầu lửa ở Trung Đông. Đó cũng là nền tảng trong chính sách của đế quốc Anh trong thập niên đầu của thế kỷ 20 đối với khối Arabs trong Vùng. Vì động cơ đó, Mỹ cần đến Israel như một căn cứ tiền tiêu trong việc chống lại các trào lưu quốc gia (nationalism) của các nước Arabs, gây xáo trộn, làm suy yếu và chia rẽ giữa các quốc gia này, kìm hảm đà phát triển kinh tế, ngăn cản họ đoàn kết chặt chẻ lại thành một khối trên căn bản tôn giáo chung, Muslim, để bảo vệ nguồn tài nguyên dầu hỏa, là máu của nền văn minh thế giới hiện đại. Sự hùng mạnh và đoàn kết của các nước Arabs theo chủ nghĩa quốc gia bị xem là mối đe doạ nghiêm trọng cho sự khống chế của Mỹ đối với chính tình và nguồn dầu lửa ở Trung Đông.
Đệ nhị thế chiến đã làm cho Âu Châu, ở cả hai phe, suy sụp hoàn toàn. Vị thế bá chủ của đế quốc Anh cũng dần dà biến mất, nhường chỗ cho siêu cường đang lên là Mỹ. Cuộc chiến đã làm cho Anh quốc gần như phá sản, mắc một số nợ lớn; trong lúc Mỹ lại trở thành chủ nợ hầu như của tất cả các cường quốc của khối Đồng Minh. Anh đã đành phải nhường dần điạ vị của mình cho Mỹ. Cùng với việc phát hiện ra Arab Saudi và mối quan hệ đặc biệt giữa Tổng Thống Mỹ Roosevelt và vua Abdul Aziz Saud, Mỹ đã khống chế được một vựa dầu lớn. Trong số 7 công ty dầu hỏa lớn nhất thế giới từ trước đến nay; người ta còn gọi là “7 chị em “(seven sisters), thì Mỹ đã chiếm hết 5. Đó là Mobil, Exxon, Texaco, Chevron và Gulf Oil. Hai công ty kia là BP (British petroleum) and Shell của Anh. Dầu hỏa, như vậy, mang dấu ấn rất nặng của văn minh Anglo-Saxon. Những công ty dầu hỏa này đôi lúc còn được gọi là Big Oils, kiểm soát hầu như toàn bộ dầu hoả rẻ tiền của Trung Đông, cung cấp dầu cho toàn thế giới.
Sau Đệ nhị Thế chiến,với kế hoạch Marshall, 5 công ty dầu của Mỹ trở thành độc quyền cung cấp dầu cho Âu châu. Các quốc gia Âu châu, trái lại không được dùng tiền của kế hoạch để xây dựng nhà máy lọc dầu riêng cho mình. Sự độc quyền đó đã giúp cho Big Oils thu được những lợi nhuận khổng lồ. Điều này đóng góp vào sự cực thịnh của kinh tế Mỹ trong thập niên 1950s. Nhờ vào giá dầu quá rẻ mà hệ thống xa lộ liên bang ra đời dưới đạo luật National Defense Highway Act. Cùng với hệ thống giao thông là kỷ nghệ xe hơi bùng phát với những công ty xe hơi lớn có ảnh hưởng rất quan trọng đối với kinh tế Mỹ, đến độ bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, ông Wilson, đã có câu nói bất hủ: “Cái gì tốt cho General Motors thì cũng tốt cho nước Mỹ” (What’s good for General Motors is good for America) (General Motors là một hảng chế tạo xe hơi lớn của Mỹ).
Bảo về nguồn dầu hỏa Trung Đông, như vậy, là rất quan trọng, trở thành sợi chỉ xuyên suốt lịch sử chính sách đối ngoại của Mỹ ở Trung Đông trong hơn nửa thế kỷ nay. Có thể tìm thấy rất nhiều dấu vết của động cơ ấy qua chính sách của Mỹ trong thời gian ngay sau Đệ Nhị Thế Chiến đối với Iran, phản ứng trong cuộc chiến 6 ngày năm 1967, cuộc chiến Iran-Iraq, cuộc chiến vùng Vịnh 1991, cuộc chiến Iraq 2003 và trong quá trình cuộc xung đột Israel-Palestine.
Quan điểm của Mỹ về Trung Đông được tóm tắt trong học thuyết Carter. Vị TT này từng tuyên bố năm 1980: “ Bất cứ toan tính của một lực lượng bên ngoài nào nhằm kiểm soát vùng Vịnh sẽ bị coi như là một hành động tấn công vào quyền lợi sống còn của Mỹ, sẽ bị đẩy lùi bằng mọi phương cách cần thiết, kể cả bằng quân sự”.(Any attempt by any outside force to gain control of the Persian Gulf region will be regarded as an assault on the vital interest of the US. It will be repelled by use of any means necessary including military force).
Thượng Nghị Sĩ Dân Chủ Henry Jackson cũng từng nói rằng :” Những đe doạ đối với sự liên tục của dòng dầu hỏa từ vùng Vịnh là hết sức nguy hiểm cho nền kinh tế của Tây Phương và Nhật Bản đến mức có thể gây ra đại chiến” ( Threats to the continuous flow of oil through the Gulf would so much endanger to the Western and Japanese economies as to be grounds for general war)
1.-Đối với Iran. Lúc đầu Iran và Israel được xem là hai đồng minh chính của Mỹ ở Trung Đông. Anh Quốc kiểm soát vựa dầu của nước này qua công ty Anglo-Iranian Oil Company. Nhưng rồi, đến năm 1953, thủ tướng Mohammed Mossadegh, do dân Iran bầu lên, muốn tìm cách quốc hữu hoá, có bồi thường thoả đáng, công ty dầu hoả đó để có vốn phát triển kinh tế Iran. Kế hoạch của Mossadegh gặp phải phản ứng dữ dội của Anh-Mỹ. CIA liền tìm cách lật đổ Mossadegh, vu cáo ông này là Cộng Sản, và tái lập chế độ quân chủ của vương triều Peacock Throne, đưa vua Shah trở lại cầm quyền Iran.Khi cầm quyền,việc đầu tiên của Shah là ký nhượng việc mua bán dầu cho các công ty dầu hoả Tây Phương, trong đó các công ty Mỹ chiếm 40%, với những điều kiện rất dễ dàng. Chế độ cai trị của Shah độc đoán, hà khắc, lòng dân Iran rất oán hận. Shah tồn tại được 26 năm chỉ nhờ một chỗ dựa duy nhất; đó là sự hậu thuẩn của Mỹ. Điều này giải thích vì sao năm 1979, khi phong trào Hồi Giáo Căn Để ( Islamic Fundamentalism) do Ayatollah Khomenei lãnh đạo lật đổ Shah, lập nên chế độ Hồi giáo ở Iran ,chính quyền của Khomenei đã bắt giam con tin Mỹ trong hơn một năm, làm mất thể diện của Mỹ trước cộng đồng quốc tế, làm sút giảm uy tín của Mỹ ở Trung Đông. Từ đó Iran và Mỹ-Israel trở nên thù địch cho đến nay.
2.-Chiến tranh 6 ngày: Tháng 6 năm 1967, Israel , áp dụng chiến lược “ tấn công ngăn ngừa” ( preventative attack),bất thần tấn công Egypt, Syria và Jordan. Với ưu thế tuyệt đối về tình báo, không quân và hoả lực, chỉ trong 6 ngày Israel đã gây thương vong cho hơn 10,000 lính Arabs, phá huỷ 340 máy bay. Ngược lại phía Israel chỉ chết hơn 300 lính và khoảng 30 phi cơ bị bắn hạ. Israel chiếm cao nguyên Goland của Syria, bán đảo Sinai của Egypt, dải Gaza và vùng West Bank tiếp giáp với Jordan. Lãnh thổ của Israel đã tăng gấp 3 lần sau cuộc chiến 6 ngày này, dồn đuổi hơn 220,000 người Palestinians ra khỏi nơi cư trú của họ.[8]
Mỹ đã làm tất cả để hậu thuẩn cho Israel trong cuộc chiến này: cung cấp tin tức tình báo, viện trợ các loại vũ khí và máy bay tối tân, ngay cả cho dùng phi cơ không quân Mỹ hoá trang và phi công Mỹ với passport dân sự trong các phi vụ tiếp liệu cho Israel, v.v…Quan trọng hơn nửa là chính phủ Mỹ đã dùng quyền veto để chống lại đề nghị Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc ra nghị quyết buộc Israel trao trả các lãnh thổ đã chiếm đóng.[9]
Một điều quan trọng hơn nữa là đến năm 1967, Israel đã thành công trong việc sỡ hữu vũ khí nguyên tử với sự giúp đỡ của công ty NUMEC, và của hai chính phủ Mỹ và Pháp. Tính đến năm 1969, Israel có tổng cộng chừng từ 12 cho đến 16 đầu đạn nguyên tử. Điều này trái với lời hứa của Thủ tướng Israel Eshkol đã đưa ra năm 1966 rằng Israel sẽ không là nước đầu tiên sản xuất vũ khí nguyên tử ở Trung Đông. Israel không bao giờ ký Hiệp ước Hạn chế Phổ biến Nguyên tử (Nuclear non-proliferation Treaty) cũng không hề chấp thuận cho việc thanh tra nguyên tử đối với đất nước của họ.
Lập trường của Mỹ trong cuộc chiến 6 ngày năm 1967 giữa các nước Arabs và Israel như trên không được xem là một thành công về mặt ngoại giao. Khối Arabs từ đó càng nghi ngờ chính sách của Mỹ hơn, dư luận Arabs càng ngày càng trở nên chống Mỹ. Không khí thù địch giữa Mỹ-Israel và khối Arabs, cứ qua mỗi biến cố chiến tranh, lại càng gia tăng hơn, làm thất bại mọi nổ lực kiến tạo một sự ổn định lâu dài cho Trung Đông hoặc giúp giải quyết số phận đau khổ của hàng triệu người Palestine đang sống trên đất của họ cũng như những người đã và đang sống trong tình cảnh tị nạn trong hơn nửa thế kỷ qua ở rãi rác khắp các nước Egypt, Syria, Jordan, Lebanon, v.v…
3.-Kế đến là cuộc chiến Iran-Iraq (1980-1988). Iraq và Iran đã từng xung đột nhau nhiều lần trong lịch sử. Từ sau khi Ayatollah Khomeini lên cầm quyền, Iran đã ngấm ngầm xúi dục dân Iraq thuộc hệ phái Shiite nổi lên chống lại sự cầm qưyền của hệ phái Sunni. Saddam Hussein cũng có tham vọng biến mình thành lãnh tụ của Arabs đầu tiên đánh bại người Persians, chiếm lại vùng lãnh thổ Shatt-al-Arab.
Khi chiến tranh bắt đầu vào năm 1980, bề ngoài Mỹ đứng trung lập, nhưng bên trong ngấm ngầm khuyến khích Saddam Hussein. Cả hai chính phủ Mỹ, Carter và Reagan, đều tìm cách giúp đỡ Iraq của Saddam về nhiều mặt : cung cấp tin tình báo, kể cả không ảnh về sự bố trí của quân Iran ; cung cấp hàng tỉ dollars tín dụng ; bí mật viện trợ vũ khí hoá học ; viện trợ lương thực ; ủng hộ các nghị quyết của Liên Hiệp Quốc lên án Iran ; nhiều chính khách Mỹ kêu gọi phong toả hải lộ Iran. Tháng 7 năm 1988, hải quân Mỹ ngay cả bắn hạ một phi cơ thương mãi của Iran, giết chết 290 thường dân ![10]
Cuộc chiến kết thúc, Iran bị tàn phá nặng, suy kiệt về mọi mặt. Iraq cũng kiệt quệ về kinh tế, nợ nần chồng chất ; nhưng lại có một đội quân hùng mạnh nhất trong khối Arabs với kho vũ khí khổng lồ ; đặc biệt là vũ khí hoá học do Mỹ trang bị. Vừa để giải quyết vấn đề nợ nần, đồng thời tận dụng lực lượng quân đội hùng mạnh cho tham vọng trở nên cường quốc Arabs số một, Saddam Hussein đã làm một điều dại dột ở quy mô chiến lược ; đó là xâm chiếm Kuwait, khơi mào cho cuộc chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất tháng 8/1990.
Theo William Engdahl, thì Mỹ đã gài bẩy cho Saddam Hussein tấn công Kuwait. Một tuần trước khi khởi binh, Saddam Hussein đã triệu Đại sứ Mỹ, là ông April Glaspie, đến để hỏi về lập trường của Mỹ đối với vụ tranh chấp Iraq-Kuwait và được ông Glaspie khẳng định là Mỹ không can thiệp.[11] Sự kiện này được ghi lại trong hồ sơ của chính phủ Saddam Hussein.
Các cơ quan tình báo Mỹ nắm vững tin tức về kế hoạch tấn công Kuwait của Saddam và vì vậy đã báo động trước cho hoàng gia nước này thoát thân an toàn cùng với toàn bộ trương mục tài chánh khổng lồ của mình. Iraq của Saddam đã hoàn thành điều mà Mỹ mong mỏi là làm suy yếu Iran ; nay đến lúc Mỹ lại cần một lý do chính đáng để làm cho Iraq , đến lượt nó, cũng phải kiệt quệ. Bằng việc tấn công Kuwait, Saddam Hussein đã cho TT George Bush cơ hội tốt để thành đạt mục đích đó, đồng thời vận động sự hậu thuẩn quốc tế cho mưu đồ riêng của mình trong việc thực hiện một New World Order, là một trật tự mà Ông đã xướng ra ngay sau khi bức tường Berlin sụp đổ.
SỰ VẬN ĐỘNG HÀNH LANG CỦA NGƯỜI JEWS Ở MỸ (Jewish lobby).
Tổ chức vận động hành lang mạnh nhất của người Jews ở MỸ là American-Israeli Public Affair Committee ( AIPAC). Tổ chức này có ảnh hưởng mạnh hơn cả công đoàn AFL-CIO và Hiệp Hội Súng trường Quốc gia (National Rifle Association). Ngoài ra, hổ trợ cho AIPAC còn có các nhóm Phúc Âm Kitô giáo (Christian Evangelicals) khác như Garry Bauer, Ralph Reed, Pat Robertson, Tom Delay, v.v…Những nhóm này tin rằng sự hồi sinh quốc gia Israel là phù hợp với lời tiên tri trong Kinh Thánh và là Thánh Ý Chúa. Cả nhóm Tân Bảo Thủ (neo-conservatives) cũng là những người vận động đắc lực cho Israel, như John Bolton: cựu Đại sứ tại LHQ, Paul Wolfowitz: cựu Thứ trưởng Quốc phòng, Jeanne Kirpatrick, Henry Kissinger, v.v…
Nổ lực vận động hành lang của người Israelis tập trung vào hai mặt chính: Ảnh hưởng lên lập trường và chính sách của các nhà lập pháp và viên chức chính phủ ở Washington, để các lập trường, chính sách đó luôn đi theo chiều hướng ủng hộ Israel. Thứ hai là tìm cách ảnh hưởng đến công luận Mỹ, phô bày những nét tích cực của Israel và những gì tiêu cực của phía Arabs, tìm cách kiểm soát các cuộc tranh luận về các vấn đề Trung Đông, hạn chế hoặc vô hiệu hoá những lời phê bình bất lợi cho Israel.
ẢNH HƯỞNG LÊN CHÍNH SÁCH
Uỷ Ban Công Vụ Mỹ-Do Thái (American-Israel Public Affair Committee)(AIPAC) có ảnh hưởng rất mạnh lên Quốc Hội. Uỷ Ban này có những mối quan hệ đặc biệt đối với các nhân viên tham mưu (staffers) của các Dân Biểu và Nghị Sĩ. Nhiều nhân viên tham mưu này hoặc là người Mỹ gốc Do Thái hoặc là thân Israel, hay hưởng bổng lộc của AIPAC; chính bộ phận tham mưu này là những người soạn thảo chính sách, dự luật cho Quốc Hội. Bản thân AIPAC đôi khi còn giúp cho các nhân viên tham mưu QH trong việc soạn thảo các báo cáo nghiên cứu, các chính sách, tổng kết số liệu thống kê, hay ngay cả viết diễn văn.
Đối với bên Hành Pháp cũng vậy. Một ví dụ là thời TT Bill Clinton, chính sách Trung Đông đã được soạn thảo bởi những nhân vật thân Israel, hoặc có quan hệ gắn bó với những tổ chức pro-Israel, như Martin Indyk, trước kia là Phó Giám đốc nghiên cứu của AIPAC, đồng thời là sáng lập viên cơ quan Washington Institute for Near East Policy (WINEP)-một tổ chức ủng hộ Israel. Một nhân vật khác cùng soạn thảo chính sách Trung Đông thời Clinton là ông Dennis Ross, sau khi rời khỏi chính quyền đã làm việc cho WINEP. Nhân vật thứ 3 tham dự việc hình thành chính sách Trung Đông là ông Aaron Miller là người thường xuyên sinh sống ở Israel.
AIPAC tìm cách tưởng lệ cho những Dân Biểu, Nghị Sĩ nào có những chủ trương, đường lối có lợi cho Israel; ngược lại vận dụng mọi biện pháp để trừng phạt những người có quan điểm bất lợi cho Israel. Khi cần AIPAC có thể lập ra cả một chiến dịch rầm rộ nào biểu tình, thư hay điện thoại khiếu nại, hoặc dùng truyền thông để chỉ trích những chính khách nào có vẻ có thái độ thiếu thân thiện với Israel. Đôi khi chỉ một lời tuyên bố hớ hênh bất lợi cho Israel cũng đủ gây rắc rối lớn cho một chính khách.
Chẳng hạn, trường hợp của Howard Dean. Năm 2004, khi ra tranh cử TT, Howard Dean kêu gọi Mỹ nên xử sự “ đồng đều” (even-handed role) hơn trong cuộc tranh chấp Israel-Arabs. Vậy là ngay lập tức TNS Joseph Lieberman công kích Dean cho rằng ông này là “vô trách nhiệm” và bán rẻ Israel. Một số đông Dân Biểu của đảng Dân Chủ ký chung thư phản đối lời tuyên bố của Dean. Đồng thời hàng trăm ngàn thư từ, e-mails từ các nơi gởi đến các tờ báo lớn của Mỹ kêu gọi tẩy chay Dean, cho rằng Dean là điều không tốt cho Israel. Cho đến hôm nay, tuy từng ở cương vị chủ tịch đảng Dân Chủ, có công lớn trong việc giúp Obama thắng cử, nhưng Howard Dean cũng không nắm được một ghế Bộ Trưởng nào trong chính phủ mới cả. Nhiều người cho rằng chỉ vì Dean đã lỡ lời trước đây khi bàn về chính sách đối với Israel-Arabs.
Ảnh hưởng của Jews Lobby cũng ghi những dấu ấn lớn lên các chính sách của chính phủ George W. Bush đối với Iraq và Iran. Các nhân vật neo-conservatives thân Do Thái như Paul Wolfowitz, William Kristol, Richard Perle, Donald Rumfeld, Charles Krauthammer, Robert Kagan, đã cùng với WINEP, JINSA ( think tanks Do Thái) tích cực vận động cho chiến tranh Iraq ngay từ thời TT Bill Clinton, và từ những ngày đầu của TT Bush. Các cơ quan tình báo Israel đã đóng góp rất tích cực trong việc thiết lập hồ sơ chuẩn bị cho việc tấn công Iraq, và về sau này những tin tức liên quan đến chương trình nguyên tử của Iran. Chiến tranh Iraq và việc kiềm chế Iran, trước hết và trên hết, là những bảo đảm an ninh lớn lao cho Israel, chứ không phải cho chính công dân Mỹ. Nguời được lợi lớn nhất trong chiến tranh Iraq là Israel; nhưng người hứng chịu gánh nặng tài chánh và nhân mạng lại là taxpayers Mỹ!
Một ví dụ khác nổi bật nhất về ảnh hưởng của Jewish Lobby lên chính sách của Mỹ là trường hợp TT George W.Bush. Vào khoảng cuối năm 2001, Bush tuyên bố ủng hộ sự thành hình quốc gia Palestine và đề nghị phiá Israel gặp Chủ tịch Palestine Yasser Arafat để đàm phán. Ngay lập tức, Thủ tướng Israel là Sharon liền tố cáo là Bush “ tìm cách làm đẹp lòng Arabs bằng cách bán rẻ chúng ta” và cảnh cáo rằng “ Israel sẽ không giống với Tiệp Khắc” ( tried to appease the Arabs at our expense) và( Israrel will not be Czechoslavia)( ý Sharon muốn ám chỉ rằng việc Bush nhượng bộ Arabs và bỏ rơi Israel cũng như trước kia Thủ tướng Neville Chamberlain đã nhượng bộ Hitler và hy sinh Tiệp).
Lời tuyên bố của Sharon, theo phát ngôn viên White House là “ unacceptable” và làm George W.Bush giận lắm. Nhưng rồi có đến 89 vị Thượng Nghị Sĩ Mỹ đồng ký tên yêu cầu Bush không nên thương lượng với Yasser Arafat và không nên kiềm chế việc Israel trả đủa người Palestine, mà nên bày tỏ mạnh mẽ sự hậu thuẩn cho Israel.( Bức thư của các TNS là kết quả của cuộc họp giữa các lãnh tụ của Cộng Đồng người Mỹ gốc Do Thái với các Nghị Sĩ chính trong Thượng Viện). Vậy là Bush đành nuốt giận.
Chưa hết, đến tháng 4 năm 2004 khi quân đội Do Thái(Israel Defense Force) ào ạt tấn công, chiếm đóng nhiều vị trí ở West Bank của người Palestine, gây công phẩn dư luận quốc tế, TT Bush vì uy tín của Mỹ, đã lên tiếng công khai yêu cầu Israel rút quân “ halt the incursion and begin withdrawal without delay”.
Thay vì làm theo lời Bush, Israel và Jews Lobby đã ráo riết vận động Quốc Hội Mỹ ủng hộ cho chính sách của Israel, vượt qua phản ứng của Hành Pháp. Hạ Viện bỏ phiếu 352/21 và Thượng Viện 94/2 thông qua Nghị Quyết kêu gọi đoàn kết và cấp thêm 200 triệu dollars cho Israel để chống khủng bố! Người ta chưa thấy Quốc Hội đạt đưọc sự đồng thuận cao như vậy trong bất kỳ một biểu quyết ngân sách hay dự luật nào khác. Sau này Cố vấn An Ninh Quốc Gia Brent Scrowcroft đã nói rằng Thủ Tướng Sharon của Israel “ đã nắm được chóp chài của TT Bush” ( Sharon has President Bush wrapped around his finger)![12]
Một vũ khí khác của AIPAC là đóng góp trong các chiến dịch tranh cử.Tờ Washington Post đã có lần ước tính rằng các ứng viên đảng Dân Chủ nhận đến gần 60% tiền vận động tranh cử từ các ủng hộ viên gốc Do Thái. Chính phủ Bill Clinton và cả bà Hillary Cliton đều nhận sự ủng hộ lớn lao của AIPAC và các tổ chức pro-Israel khác. Vì vậy, tuy TT Barack Obama nói nhiều về Thay Đổi ( Change), và nhấn mạnh đến mặt trận ngoại giao, nhưng việc trao Bộ Ngoại Giao cho bà Hillary Clinton làm cho nhiều người tin rằng chính phủ mới sẽ không có những đổi thay lớn trong chính sách đối với cuộc tranh chấp Israel-Palestine; một chính sách đã từng khiến cho một nhà thương thuyết Palestine, trong cuộc hoà đàm tại trại David năm 2000, than phiền rằng :” phải thương thuyết một lúc với hai phái đoàn Israels: một mang cờ Do Thái và một mang cờ Mỹ” ( negotiating with two Israel teams: one displaying an Israeli flag, and one an American flag)[13]
ÀNH HƯỞNG LÊN CÔNG LUẬN MỸ:
Ngoài ra người Do Thái còn ảnh hưởng lên dư luận Mỹ thông qua các phương thế sau đây:
1.-Think Tanks: Các think tanks đóng một vai trò rất quan trọng trong sự định hình các luồng tư tưởng của công luận cũng như trong việc hoạch định các chính sách trên thực tế. Think Tanks- nơi quy tụ các học giả, chính khách, chuyên gia, chiến lược gia, phân tích gia thượng thặng của các lãnh vực khoa học, kinh tế, chính trị, xã hội- là một sản phẩm đặc trưng của Mỹ xét cả về quy mô lẩn mức độ ảnh hưởng lên chính quyền và giới truyền thông. Tại Âu Châu và Á Châu ngày nay tuy cũng có think tanks, nhưng chẳng qua cũng chỉ là một sự bắt chước theo Mỹ, ở quy mô khiêm tốn, mà thôi.
Kể từ khi RAND Corporation, think tank đầu tiên, ra đời năm 1946, đến nay có tổng cộng lớn nhỏ chừng hơn 1,500 think tanks trên toàn nước Mỹ, trong số đó có chừng 15 think tanks lớn và có ảnh hưởng nhất đặt bản doanh ở Washington, DC. Những think tanks quen thuộc là : Amerian Heritage, Brookings Institution, Center for Strategic and International Studies, Center for Security Policy, Foreign Policy Research Institute, Jewish Institute for National Security Affairs (JINSA), American Enterprise Institute, The Heritage Foundation, Cato Institute, The Carnegie Endownment for International Peace, The Council on Foreign Relations, Washington Institute for Near East Policy (WINEP), Hudson Institute, v.v…Trung bình những think tanks này có ngân sách thường niên chừng 25 triệu dollars trở lên.[14]
Trong các think tanks trên thì WINEP được lập ra năm 1985 do nổ lực của Jewish Lobby. Các think tanks khác như JINSA, Heritage Foundation, Hudson Institute, The Institute for Foreign Policty Analysis và Brooking Institution đều chịu ảnh hưởng rất nặng, hoặc về nhân sự hoặc về tài chánh, hoặc cả hai, của giới vận động hành lang Do Thái (Jewsish Lobby).
2.-Các trường đại học: Jewish Lobby cũng tìm nhiều phương cách để gây ảnh hưởng đến những cuộc thảo luận tại các trường đại học liên quan đến vấn đề Trung Đông và quốc gia Israel; nổ lực tạo ra những hình ảnh và dư luận tốt đẹp về Israel, đồng thời tìm mọi cách giảm thiểu những phê bình đối với các chính sách của nước này. Nhiều nhóm hoạt động, như Caravan for Democracy, gởi các diễn giả đến các trường đại học lớn giải thích các chính sách của Israel cho sinh viên Mỹ, tổ chức các sinh hoạt ngoại khoá tuyên truyền cho Israel. Họ còn tổ chức việc theo dỏi những bài giảng của các giáo sư để phát hiện sớm, và tìm cách đối phó, những bài có nội dung bất lợi cho Israel, lập ra những black lists các giáo sư có quan điểm “ chống Israel” rồi vận động sinh viên và phụ huynh lên án hoặc cô lập hay tẩy chay các giáo sư đó, hay ngay cả vận động để các trường đại học không mướn những vị giáo sư hay học giả đó. Một ví dụ là trường hợp học giả Trung Đông nổi tiếng Rashid Khalidi. Khi trường đại học Columbia mời Ông về giảng dạy, lập tức có hàng ngàn lá thư gởi đến văn phòng viện trưởng của Trường để phản đối với lý do là ông Khalidi có quan điểm chính trị không thích hợp. Vài năm sau, đến lượt trường đại học Princeton cũng gặp tình cảnh tương tự khi trường này định mời ông Khalidi đến giảng dạy ở trường.
3.-Giới truyền thông: truyền hình, báo chí, nhà xuất bản…Chính trong lãnh vực truyền thông Mỹ mà ảnh hưởng của Jewish Lobby là gần như vô tiền, khoáng hậu. Sơ lược sau đây là một số những tổ hợp truyền thông lớn ở Mỹ, trong đó người Do Thái hoặc làm chủ hoặc nắm quyền kiểm soát tuyệt đối:
Time Warner: Tổ hợp truyền thông lớn nhất này là sự kết hợp giữa Warner và AOL, có doanh thu hằng năm chừng 50 tỉ dollars. Warner được người Do Thái lập ra vào thế kỷ trước, trở nên một trung tâm quyền lực của người Do Thái ở Hollywood. Giám đốc điều hành(CEO) hiện nay là Gerald Levin, một người Do Thái.
Tổ hợp này bao gồm nhiều hảng phim như Warner Brothers Studio, Castle Rock Entertainment, New Line Cinema; nhà xuất bản như Time-Life Books, Book of the moth Club, Little Brown, v.v…; dịch vụ internet như AOL; và cả hệ thống truyền hình CNN với hàng trăm triệu khán giả.
Disney : Tổ hợp truyền thông khổng lồ thứ hai này có doanh thu hàng năm chừng 35 tỉ dollars, cũng là của người Do Thái , hiện nay do Michael Eisner làm giám đốc. Tổ hợp này cũng bao gồm nhiều công ty truyền hình, phát thanh, nhà xuất bản: hệ thống truyền hình ABC, ESPN, NBA, NFL, A&E, Life Time TV, Disney Radio Network, Walt Disney Company Book Publishing, Miramax Books, v.v…Đáng chú ý nhất là Disney Publishing Worldwide xuất bản sách báo bằng 55 ngôn ngữ khác nhau, đến 74 quốc gia trên khắp thế giới, có hơn trăm triệu độc giả hàng tháng !
Viacom: Với doanh thu đồng niên chừng 30 tỉ dollars, Viacom là tổ hợp lớn thứ 3 nằm dưới sự kiểm soát của người Do Thái, đứng đầu là Sumner Redstone và Melvin Karmazin. Viacom cung cấp các chương trình truyền hình, sỡ hữu mạng truyền hình CBS với khoảng 39 đài truyền hình, và hàng trăm đài phát thanh khác trên nhiều vùng. Hệ thống MTV, Country Music Television, và The Nasville Network Cable Channels cũng thuộc về Viacom.
Ngoài ra, kênh truyền hình Fox News Channel cũng nằm dưới sự kiểm soát của người Do Thái. Cùng với Fox Television Network, 20 th Century Fox Film và nhà xuất bản Harper Collins, nó thuộc về tập đoàn News Corporation, chuyên vận động cho các chủ trương cuả nhóm Tân Bảo Thủ (neoconservatives) trong chính phủ của TT Bush, đứng đằng sau các nổ lực tuyên truyền cho cuộc chiến Iraq. Tờ The Weekly Standard với cây bút nổi tiếng William Kristol cũng thuộc về News Corporation và nằm trong tầm tay điều khiển của người Do Thái.
Như vậy, về mặt truyền thông, người Do Thái ở Mỹ đã trực tiếp nắm trong tay nhiều cơ sở quan trọng, có mức độ ảnh hưởng vô cùng lớn lao lên công luận Mỹ. Những nhận định sau đây trong một bài nghiên cứu của nhóm National Vanguard Books có thể ít nhiều nói lên tầm mức của những ảnh hưởng như vậy:
“Không có một quyền lực nào trong thế giới ngày nay lớn hơn quyền lực đạt được bởi những người uốn nắn công luận Mỹ. Chưa hề có một ông vua, một vị giáo hoàng thời xưa, một ông tướng bách chiến hay một vị giáo chủ nào đã từng hành xử một quyền lực sánh được với quyền lực của chừng vài chục người đang kiểm soát các phương tiện giải trí và truyền thông đại chúng của Mỹ”. ( there is no greater power in the world today than that wielded by the manupulators of public opinion in America. No king or pope of old, no conquering general, or high priest ever disposed of a power even remotely approaching that of the few dozen men who control Amerca’s mass media of news and entertainment)[15].
Truyền thông vận dụng nhiều phương cách để nhào nặn ( manipulating) dư luận một cách tinh vi và thấu đáo. Trước hết là cách quản lý việc đưa tin. Chỉ nội một việc sắp xếp cách thức tin tức được đưa ra, thời điểm và khung cảnh đưa tin, thời lượng cho từng phần tin, giọng điệu khi đọc tin, hình tượng đi kèm theo tin, cách thức đối chiếu các bản tin, từ ngữ xữ dụng, cách chạy các hàng tít, v.v…Rồi còn những chọn lựa dựa theo bối cảnh văn hóa, chủng tộc, lịch sử, tôn giáo và đặc điểm tâm lý của từng bộ phận độc, khán, thính gỉa, để rồi từ đó có phương cách phổ biến tin tức cho phù hợp.
Chẳng hạn, cách mà báo chí Tây phương, nhất lả báo chí Mỹ, miêu tả về hành động của hai bên Israel-Palestine. Bất kỳ khi nào Isarel có một hoạt động nào đó đối với người Palestine, hoặc là dùng phi cơ ném bom, hay xua chiến xa tấn công vào các vùng của người Palestine, giết hại hàng chục, hàng trăm thường dân, kể cả đàn bà trẻ em , thì báo chí, truyền hình Mỹ gọi đó là các hoạt động quân sự (MILITARY MISSIONS). Nhưng nếu phía người Palestine trả đủa, bất kỳ là bằng cách nào, kể cả bằng dùng giàng thung bắn đá hay mang bom tự sát, gây thương vong cho thường dân hay chiến sĩ Israel, thì báo chí và truyền hình Mỹ đều gọi các việc làm đó là hành động khủng bố (TERRORIST ACTIONS). Dư luận Mỹ , và cả của người Việt, không mấy ai thắc mắc về sự khác biệt trong cách dùng từ ngữ như vậy của giới truyền thông Mỹ đối với hai bên Israel-Palestine. Người ta mặc nhiên chấp nhận, và chính sự mặc nhiên chấp nhận đó là kết quả của sự nhào nặn công luận, một cách tinh vi, của các phương tiện truyền thông Do Thái -Mỹ. Vì về mặt tâm lý, một cách vô thức, người nghe sẽ có những phản ứng tình cảm khác nhau đối với mỗi từ: hoặc là trung lập, kính nể hoặc là thiện cảm đối với từ MILITARY; ngược lại sẽ khinh chê hoặc căm ghét đối với từ TERRORIST.
Một ví dụ khác về cách chọn từ ngữ của giới truyền thông Do Thái -Mỹ là chữ CONFLICT. Báo chí và truyền hình Mỹ qua hàng mấy chục năm nay luôn dùng từ ngữ này khi nói đến sự thù địch giữa Israel-Palestine. Nhưng nhiều học giả cho rằng chữ CONFLICT bao hàm ý rằng hai bên liên hệ, trong sự tranh chấp hay xung đột, có mức độ bình đẳng (EQUALITY) về tư thế và về lực lượng; và không nên lẩn lộn giữa CONFLICT với ANNEXATION, INVASION, hay OCCUPATION. Trong hàng mấy chục năm qua, sự thật cho thấy người Israelis đã INVADED (xâm chiếm), ANNEXED (sáp nhập) và OCCUPIED (chiếm đóng) đất đai của người Palestine, chứ không phải là tranh chấp CONFLICTED giữa hai quốc gia bình đẳng về mặt quốc tế công pháp. Việc lập đi lập lại từ CONFLICT là có thâm ý che lấp sự chênh lệch quá xa lực lượng của hai bên và tính chất chủ động xâm lăng của người Do Thái.
Ngoài việc quản lý tin tức (news management), mặt thứ hai cũng hết sức quan trọng trong việc uốn nắn dư luận vào một hướng định trước là việc giải thích và bình luận tin tức của các nhà bình luận, chuyên gia, trí thức, học giả, v.v… Về mặt này, người Do Thái, cùng với khả năng khống chế lớn lao các phương tiện thông tin, là khả năng tài chánh để thuê mướn các chuyên gia, nhà bình luận, học giả, biên tập viên, ký giả, v.v…nhằm mớm vào trí óc dân Mỹ những cách giải thích và bình luận tạo nên những hình ảnh tốt đẹp về Israel. Người Palestine hầu như không có lấy một diễn đàn hay một cơ hội để lên tiếng trước công luận Mỹ; nhưng người Do Thái lại chiếm vai trò độc tôn trong công việc giải thích và bình luận tin tức liên quan đến cuộc xung đột Israel-Palestine. Nói đúng hơn là người Do Thái độc quyền trong việc giải thích mọi vấn đề của cuộc xung đột, uốn nắn dư luận theo chiều hướng thuận lợi nhất cho phiá họ.
HIỆN TRẠNG NGƯỜI PALESTINE
Ngay khi Liên Hiệp Quốc phân chia vùng Palestine, trao phần lớn đất đai cho người Israelis lập quốc, số dân Palestinians phải dồn vào hai vùng West Bank và Gaza, một số lớn khác bị người Israel xua đuổi, chạy qua tịn nạn ở các quốc gia kế cận. Đó là đợt những người Palestinians tị nạn đầu tiên.
Sau cuộc chiến 6 ngày năm 1967, Israel chiếm cao nguyên Goland của Syria, bán đảo Sinai của Egypt, vùng West Bank và Gaza, hàng triệu người Palestine lại đã phải bỏ quê nhà trốn chạy lần nữa, tị nạn sang các nước như Jordan, Syria, Lebanon, Egypt,v.v…Hiện nay tổng số người Palestinians tị nạn lên đến chừng 3 triệu người : nhiều nhất là ở Jordan (1.8 triệu), Syria và Lebanon mỗi nơi khoảng ½ triệu. ỞWest Bank hiện có khoảng 2,345,000 người Palestinians, trên diện tích khoảng 5,860km vuông; và ở Gaza chừng gần 1.5 triệu người trên một diện tích chừng chỉ hơn 360km vuông. Có chừng hơn 1.3 triệu người Palestinians ở lại trong phạm vi lãnh thổ của người Israel trước 1967.
Từ năm 1967 cho đến nay, Israel đã lần lượt trả lại bán đảo Sinai cho Egypt và cao nguyên Goland cho Syria, nhưng đã không chịu trao trả West Bank và Gaza cho người Palestine. Trái lại, họ đã lần lượt đưa người Do Thái đến chiếm đất lập thành những khu định cư trong hai vùng đất đó. Những vùng gần nguồn nưóc, những vùng đất màu mỡ và trồng trọt được ở West Bank đều lần lượt rơi vào tay người định cư Do Thái. Những người định cư này được vũ trang đầy đủ, trong tình trạng “ động vi binh, tĩnh vi dân”. Bên ngoài các khu vực định cư này là các vành đai quân sự của quân đội Do Thái ( Israel Defense Force, IDF) với những Check Points để kiểm soát sự đi lại của người Palestinians. Người định cư và lính Do Thái còn tìm nhiều phương cách sách nhiểu làm cho người Palestinians phải nản lòng và tự rời xa các khu định cư của người Do Thái.
Những việc làm đó của Israel đã gây ra những biến dạng lớn trên bản đồ Israel-Palestine từ năm 1948 đến nay. Chẳng hạn vào năm 1948 bản đồ phân chia Palestine của Liên Hiệp Quốc qui định thành phố Jerusalem, do tính cách lịch sử của nó, là địa điểm quốc tế (xem Bản Đồ 1). Nhưng những năm sau này Israel đã chiếm đóng và sáp nhập Jerusalem vào lãnh thổ của mình ( Xem Bản Đồ 2).
Những năm gần đây khi giải pháp Hai Quốc Gia được đưa ra, một số tổ chức quốc tế đã giúp Palestine National Authrority làm một số thống kê. Số liệu tháng 12 năm 2007 cho thấy dân số của quốc gia Palestine, đã được 96 quốc gia trên thế giới chính thức thừa nhận, là 3,770,000 người. Diện tích của quốc gia Palestine này chỉ chừng 6,020km vuông, gồm trong hai vùng chính là West Bank và Gaza.
Trong thời gian chiếm đóng West Bank, chính phủ Israel đã lập ra một mạng lưới các xa lộ để nối các khu định cư người Do Thái lại với nhau, và trên mạng xa lộ đó, người Palestinians không được xử dụng và cũng không được đến gần. Thời gian gần đây, người Do Thái còn xây tường (security fence) bao bọc, che chắn cho các khu định cư Do Thái ở West Bank, có chỗ tường cao 10 m. Tại nhiều nơi các bức tường này cắt ngay vào chính giữa những tu viện Kitô Giáo đã có lịch sử trong cả ngàn năm rồi!
Một vài con số nói lên tình trạng định cư của ngưòi Do Thái ở West Bank:
8000 người định cư Do Thái chiếm 40% đất canh tác được và 50% nguồn nước, với sự bảo vệ của 12,000 quân sĩ Do Thái. Trong lúc chừng 1.3 triệu người Palestinians chiếm 60% đất khô cằn còn lại và không một ai bảo vệ họ cả![16]
Các cuộc hoà đàm Camp David, Oslo, và nổ lực đàm phán của Liên Hiệp Quốc với Geneva Initiative tuy có đưa ra giải pháp HAI QUỐC GIA : Israel-Palestine, cũng như nhiều đề nghị hoà bình khác; nhưng cho đến nay vẫn chưa đem lại được một nền hoà bình thật sự cho người Palestinians. Chính phủ Israel nhượng bộ rất ít. Chẳng hạn, trước đây họ thừa nhận Phong Trào Giải Phóng Palestine (PLO) là đại diện của người Palestìnians, sau này họ thừa nhận Palestine National Authority. Phía Do Thái cũng đồng ý trao lại một số quyền hạn về cảnh sát, giáo dục cho người Palestine trong hai vùng Gaza và West Bank. Tuy nhiên, đó chỉ là những nhượng bộ tượng trưng nhằm mục đích tuyên truyền. Trên thực tế, người Palestinians tại hai vùng đó hoàn toàn không có một quyền hạn tự trị nào về kinh tế, thương mãi, thuế khoá hay chính trị trên lãnh thổ của họ.
Các công, nông sản của người Palestinians ở West Bank và Gaza không được bán vào lãnh thổ của Israel vì người Do Thái sợ bị cạnh tranh. Những người công nhân Palestinians hàng ngày vào làm việc trong các hảng xưởng trên lãnh thổ của Israel phải trãi qua nhiều thủ tục xét hỏi rất rắc rối về an ninh. Quyền thu thuế ở hai vùng vẫn nằm trong tay người Do Thái. Các dịch vụ Y tế, Bưu Điện đều hoàn toàn do chính phủ Do Thái kiểm soát. Ngay cả cơ quan Palestine National Authority của người Palestinians vẫn phải chịu sự chi phối về tài chánh của chính phủ Israel. Cựu TT Jimmy Carter, khi được mời quan sát về các cuộc bầu cử của người Palestinians ở vùng West Bank, đã kể lại một trường hợp ở Đông Jerusalem, trong vùng West Bank, taị địa điểm đầu phiếu, nhân viên bưu điện Do Thái có một danh sách cử tri Palestinians riêng, và những người Palesinian nào không có tên trong danh sách đó thì nhân viên bưu điện Do Thái không cho vào bỏ phiếu. Kết quả chỉ tại địa điểm đầu phiếu đó thôi, đã có hơn 3000 cử tri Palestinians bị loại. Cuối cùng đích thân Jimmy Carter phải can thiệp với thủ tướng Israel mới giải quyết được![17]
Điều đáng chú ý ở đây là trong lúc truyền thông Mỹ không ngớt làm ầm ỷ về các cuộc bầu cử ở Iraq, nhưng lại không bao giờ có một tường trình đầy đủ nào về ý thức dân chủ của người Palestinians và các cuộc bầu phiếu của họ trong tình cảnh bị chiếm đóng ở hai vùng West Bank và Gaza. Cựu TT George W. Bush luôn đề cao việc truyền bá Dân Chủ qua Trung Đông, nhưng chính bản thân chính phủ của Ông lại không ngừng tiếp tay cho chính phủ Israel để tìm cách bóp chết tiếng nói nhân quyền và dân chủ của người Palestinians trong các cuộc bầu cử cơ quan Palestinian National Council của họ!
Giáo sư Ilan Pappe của trường đại học Haifa, một nhà sử học Do Thái, đã gọi chính sách của Israel đối với người Palestinians là chính sách diệt chủng ( Ethnic Cleasing of Palestine). Năm ngoái Ông đã xuất bản quyển sách với nhan đề như vậy, trong đó Ông tóm tắt lịch sử của chủ nghĩa quốc gia Do Thái Zionism, thực chất các chính sách của chính phủ Israel và sự dối trá của chính phủ đó đối với giải pháp Hai Quốc Gia: Israel-Palestine. Theo Giáo sư Pappe thì thực chất của chính sách Israel đối với người Palestinians là sự thực dân và diệt chủng (colonialism and ethnic cleasing); chính phủ Israel đã biến Gaza và West Bank thành hai nhà tù khổng lồ, trong đó Palestinians là tù nhân. Chủ trương căn bản của Zionism bao gồm hai khía cạnh chính : Điạ lý và Dân số (Geography and Demography);về địa lý, Zionists muốn thâu tóm toàn bộ vùng Palestine; về Dân số, họ muốn người Jews chiếm đa số tuyệt đối, số người Palestinians phải giảm xuống mức tối thiểu, càng ít càng tốt ! [18]
Với một chủ trương như vậy, người Do Thái không bao giờ thực lòng chấp nhận giải pháp Hai Quốc Gia Israel-Palestine bình đẳng như nhiều người mong đợi. Chính phủ Israel đã tìm cách gây ly-gián nội bộ người Palestinians, giữa đảng Fatah có chủ trương ôn hoà của Mahmoud Abbas và nhóm Hamas cực đoan của Bác sĩ Mahmoud Ramahi. Khởi đầu, chính phủ Israel không chịu thừa nhận Phong Trào Giải Phóng Palestine (PLO) và chủ tịch Yasser Arafat. Đến khi PLO và Yasser Arafat được thế giới và Mỹ thừa nhận thì Israel lại nại nhiều cớ khác để không đàm phán với Arafat. Khi Yasser Arafat chết năm 2004, Mahmoud Abbas lên thay, là một người rất ôn hoà, sẳn lòng thương lượng cho một giải pháp hoà bình, thì chính phủ Israel lại tìm cách gây ra nhiều khó khăn cho Abbas, khiến ông này không làm việc được, mất dần uy tín chính trị với dân chúng; ngược lại tạo ra những điều kiện thuận lợi cho nhóm cực đoan Hamas gia tăng uy thế của mình, lấn át Mahmoud Abbas. Nhưng khi Hamas mạnh lên và có hành động cứng rắn thì Israel lại vin vào cớ đó để phản ứng mạnh hơn bằng các biện pháp quân sự.
Việc mới đây Hamas bắn rockets vào lãnh thổ Israel và sau đó quân đội Do Thái IDF, để trả đủa, trong 3 tuần lễ liên tiếp đã dùng phản lực cơ ném bom, rồi dùng chiến xa và bộ binh tấn công vào Gaza giết hơn 1,500 người Palestinians và hơn 3,500 người khác bị thương, trong đó đa số là dân thường, đàn bà và trẻ em; 1.5 triệu người khác phải sống không điện và nước uống trong cả tháng trời. Cho đến nay, các nổ lực trung gian hoà giải của Egypt và Cộng Đồng Âu Châu vẫn chưa mang lại được kết quả gì khả quan, quân đội Israel vẫn tiếp tục phong toả Gaza, tiếp tục oanh kích những nơi bị nghi ngờ là đường hầm vận chuyển hoả tiển từ Egypt qua, và hàng trăm ngàn người Palestinians vẫn phải chịu đựng cảnh màn trời chiếu đất, thiếu thốn cả thuốc men, lẫn lương thực. Tình cảnh này dường như phù hợp với nhận định của cựu TT Mỹ Jimmy Carter và của nhà sử học Ilan Pappe về âm mưu kỳ thị và diệt chủng của chính phủ Israel đối với người Palestinians.
KẾT LUẬN:
Sự tuyên truyền, giải thích tin tức về cuộc xung đột Israel-Palestine, trong một thời gian dài, đã gây ra nhiều hiểu biết lệch lạc, phiến diện trong dư luận do nổ lực vận động hành lang của chính phủ Israel và người Mỹ gốc Do Thái. Đã đến lúc giới truyền thông cần phải tái lập lại truyền thống thông tin trung thực và khách quan vốn có của mình, thoát ra khỏi cái “gông” Jewish Lobby, phơi bày sự thật của cuộc xung đột để mọi người công dân Mỹ nhận chân được thực trạng, và rồi từ đó đòi hỏi Quốc Hội và Chính phủ có những chánh sách phù hợp với quyền lợi thật sự của đất nước này hơn trong tình thế chiến lược mới.
Mặt khác, lịch sử xung đột Israel-Palestine cho thấy rằng trong chính trị nói chung ,và chính trị quốc tế nói riêng, không có chỗ cho vấn đề đạo đức hay lương tâm. Trong chính trị quốc tế, đạo đức là đạo đức của kẻ mạnh, của kẻ thắng trận, của kết quả sau cùng. Quan niệm cho rằng CHÍNH TRỊ là” sửa sang mọi sự lại cho ngay thẳng”, theo kiểu Á Đông xưa, hoàn toàn không phù hợp với chính trị quốc tế hiện đại; một sân khấu chính trị trong đó mỗi dân tộc vì chính mình trước tiên, và điều căn bản nhất là phải mạnh lên để bảo vệ quyền lợi của mình. Không có VƯƠNG ĐẠO; chỉ có BÁ ĐẠO mà thôi. Mục tiêu trên hết của chính trị quốc tế là QUYỀN LỰC, chứ không phải là Ý THỨC HỆ. Người Israelis hay người Palestinians tranh đấu, trước hết và trên hết, cho sự TỒNTẠI, cho sự sống còn, và đó là một cuộc đấu tranh sinh tồn tàn bạo chịu sự chi phối của luật đào thải ; họ không chiến đấu cho TƯ BẢN hay cho CỘNG SẢN, chỉ chiến đấu cho chính sự TỒN TẠI. Điều đó có nghĩa rằng nếu có ý thức hệ thì chỉ có một ý thức hệ duy nhất; đó là SỰ SỐNG CÒN CỦA TỔ QUỐC. Người Việt chúng ta cần suy ngẫm về điều này trong mối liên tưởng về mối-hoạ-truyền- kiếp-Trung-Hoa đang tái hiện.
Sự vận dụng quan hệ ngoại giao Israel-Mỹ cuả người Do Thái là một điều khác đáng cho chúng ta so sánh. Quan hệ Mỹ-Việt trước đây trong khoảng thời gian từ 1954-1975 có những nét tương tự, nhưng về mặt vận dụng mối quan hệ đó cho quyền lợi của mình thì người Việt Nam thua kém xa người Do Thái. Căn bản của sự khác biệt đó bắt nguồn từ ý thức Quốc Gia-Dân Tộc. Người Do Thái và các lãnh tụ của phong trào Zionism có ý thức rất vững vàng và mạnh mẽ về quốc gia-dân tộc của mình, nguyện vọng xây dựng lại một nước Israel theo khuôn mẫu của vương quốc Judea thấm sâu trong lòng mỗi người Do Thái. Chính nhờ ý thức quốc gia-dân tộc mạnh mẽ và sâu xa đó, cộng với sự đoàn kết xây dựng trên nền tảng huyết hệ và tôn giáo bản xứ đồng nhất- Judaism- mà người Do Thái đã giữ được tinh thần độc lập của mình, biết tận dụng mối quan hệ đặc biệt với Mỹ để phục vụ cho quyền lợi của đất nước và dân tộc họ.
Cách tổ chức và khả năng vận động hành lang (lobby) của người Do Thái ở Mỹ cũng là một điều đáng được nghiền ngẩm bởi tất cả những người Việt gốc Mỹ nào còn ưu tư về tương lai của Dân Tộc và Quê Hương, còn mong muốn chính trị của quê hương thứ hai mang đến những tác động tích cực cho quê hương đầu tiên. Ngoài tài tổ chức ra, trong lãnh vực này người Do Thái cũng không để cho các chính khách Mỹ lợi dụng họ; trái lại người Mỹ gốc Do Thái đã biết khai thác tối đa cơ cấu chính trị của nước cư trú để phục vụ cho quyền lợi tối thượng của quốc gia Israel. Sự nhạy bén chính trị cũng như nhiệt tình và sự đòan kết của cử tri Mỹ gốc Do Thái thật là tuyệt vời và đáng cho chúng ta khâm phục.
SUNNYVALE, NGÀY 15 THÁNG 2 NĂM 2009
TRƯƠNG ĐÌNH TRUNG(nguồn www.khoahoc.net

http://www.khoahoc.net/baivo/truongdinhtrung/260209-xungdotisraelpalestine.htm

0 comments :

Post a Comment